07-08-2025 - 00:58

Yếu tố Giặm – Vè trong một số bài thơ của các nhà thơ xứ Nghệ

Tạp chí Hồng Lĩnh số 227 trân trọng giới thiệu bài viết “” của nhà nghiên cứu lý luận phê bình Hà Quảng

Vấn đề ảnh hưởng qua lại giữa văn học dân gian và văn học viết, dẫu chỉ ở một địa phương, là một vấn đề lý thú song rất sâu rộng. Trong bài viết này chúng tôi chỉ bó hẹp phạm vi nghiên cứu của mình vào một khía cạnh nhỏ, đó là sự ảnh hưởng của “hát Giặm”, một thể điệu dân ca Nghệ Tĩnh vào trong một số tác phẩm của các tác giả tiêu biểu trong dòng thơ Xứ Nghệ, quê hương của thể điệu dân ca này. Và như trên đã nói, sự ảnh hưởng này diễn ra trên nhiều bình diện, ở đây chúng tôi chủ yếu chỉ khảo sát vấn đề chung quanh các yếu tố thuộc cấp độ hình thức. Điểm lại những bài thơ thành công của Nghệ Tĩnh thời hiện đại đặc biệt từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay ta sẽ thấy rõ điều này. Đó là mối tương quan nghệ thuật giữa các bài thơ quen thuộc, khá nổi tiếng của các tác giả như Huy Cận, Trần Hữu Thung, Minh Huệ, Thạch Quỳ, Xuân Hoài, Nguyễn Lê, Thanh Bình, Yến Thanh... với thể điệu hát Giặm - một sản phẩm dân ca độc đáo của xứ này.

Các nhà thơ Nghệ Tĩnh lớn lên đã được tắm trong không khí Giặm, Vè. Trong sản xuất cũng như trong đấu tranh, lúc sinh hoạt cũng như khi hội hè, đâu đâu cũng được nghe “bẻ Vè”, “kể Giặm”. Dạng thức nghệ thuật này đã tạo một tiền đề cho sự lĩnh hội và sáng tạo của các hồn thơ, rồi nhà thơ trước ảnh hưởng nhà thơ sau, ở đây không loại trừ sự  “bắt chước” các bài thơ nổi tiếng, dần dà tạo thành một truyền thống, một dáng vẻ riêng của vùng thơ núi Hồng sông Lam.

Núi Hồng sông Lam. Ảnh: Đậu Hà

1. Yếu tố “tính truyện” trong  Giặm - Vè và thơ Xứ Nghệ:

 Nhà thơ Xuân Diệu đã lần nhắc đến hai loại thơ: loại trữ tình và loại tự sự; loại trữ tình bộc lộ thẳng những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả, loại tự sự nói gián tiếp thông qua một số sự việc nào đó. Ông xem bài thơ viết về Mã-Pí-Lèng với những chi tiết gân guốc, những sự việc đầy gian khổ trong việc làm con đường vắt qua núi này là thuộc loại thơ thứ hai, thơ tự sự. Đây là sự phân chia tương đối, nhưng nó chỉ cho ta thấy một điều, trong cảm nhận của nhà thơ quá cố, ông đã thấy một cái gì riêng biệt trong phương thức thể hiện của một loại thơ có nhiều yếu tố “kể”.

Đọc các bài thơ tiêu biểu của Nghệ Tĩnh như “Thăm lúa” - Trần Hữu Thung, “Đêm nay Bác không ngủ”, “Chiều  Đảo Khoỏng” - Minh Huệ, “ Gửi bạn người Nghệ Tĩnh” - Huy Cận, “Mẹ” - Nguyễn Lê, “Ánh lửa”, “Người đưa thư kể chuyện” - Xuân Hoài, “Con chim tà vặt” - Thạch Quỳ, “Thần Sấm ngã” - Thanh Bình; “Cúc ơi” - Yến Thanh v.v... chúng ta thấy hướng vận động chủ yếu của các bài thơ này được xây dựng với những tứ thơ đậm đặc “yếu tố tự sự - tính truyện” mà Xuân Diệu đã từng đề cập đến khi bàn về thơ. Bài thơ có thể kể lại được vì cơ sở bài thơ là cái “tình”, nhưng nòng cốt bài thơ là cái “sự”. Tứ thơ được xây dựng và triển khai xung quanh cái “sự” này, yếu tố kể chuyện trở thành nhân tố chủ yếu. Vũ Ngọc Phan khi nói đến Giặm, Vè đã lưu ý đến đặc điểm “kể lên một giai thoại” hay “một việc mới xảy ra”, “kể một sự tích gì có tình tiết” (3). Những nhận xét đều nhấn mạnh tính “kể chuyện”, đây là một đặc điểm khá quen thuộc của hát Giặm ảnh hưởng đến thơ sau này.

Bài thơ “Thăm lúa” là câu chuyện người vợ chiến sĩ đang chiến đấu ngoài mặt trận, ở hậu phương, nhớ chồng, quyết tâm thi đua sản xuất. “Đêm nay Bác không ngủ” kể chuyện anh chiến sĩ ba lần thức dậy trong đêm thấy Bác không ngủ đi đắp chăn cho từng chiến sĩ. “Mẹ” kể chuyện người mẹ có con trong buổi học bị bom Mỹ giết hại, “Người đưa thư kể chuyện” là câu chuyện kể lại của người cán bộ bưu điện sau ngày miền Nam giải phóng, “Ánh lửa” kể lại câu chuyện bà mẹ thức vá áo cho các chiển sĩ trên đường hành quân nghỉ lại, “Con chim tà vặt” kể về những kỷ niệm của tác giả và con chim quê hương, “Thần Sấm ngã” kể chuyện dân quân Hà Tĩnh bắn máy bay Mỹ, “Cúc ơi” kể chuyện cô gái phá bom hy sinh… Đi sâu vào từng bài thơ, chúng ta thấy trên cái sườn chính là chuyện, các tác giả triển khai tứ thơ chủ đạo bằng nhiều tình tiết, nhiều sự việc: người vợ đi tiễn chồng đến nơi tập trung, Bác ba lần đắp chăn cho chiến sĩ, người con làm toán, quét sân,  bà mẹ khâu áo trong đêm, con chim bay theo người, chiếc tàu bay bị bắn cháy... Một thí dụ cách kể việc trong bài “Thăm lúa”: Cái xắc mây anh mang/ Em nách mo cơm nếp/ Lúa níu anh trật dép/ Anh cúi sữa vội vàng… Chuyện và việc là những yếu tố đậm đặc trong các bài thơ, tác giả ít phát biểu trực tiếp suy nghĩ, bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình, tứ thơ triển khai theo các tuyến sự việc, qua các sự việc đó chủ đề tư tưởng bài thơ gián tiếp bộc lộ.

Xây dựng trên cái xương sống là “câu chuyện” các bài thơ thường sử dụng một liên kết giữa các cặp nhân vật mà những nhân vật này hỗ trợ cho nhau trong một tương quan chung như kiểu liên kết “phụ - tử ”, “phu - phụ”, “sư - đệ” …hay “chàng - nàng”, “cả - lẻ”, “quan - lính” như trong những bài hát Giặm cổ. Thể liên kết này trong thơ các tác giả tạo nên những cặp hình tượng sóng đôi có quan hệ tương tác, qua quan hệ này, tư tưởng bài thơ được bộc lộ. Đó là các cặp nhân vật: lãnh tụ - chiến sĩ (Đêm nay Bác không ngủ), vợ - chồng (Thăm lúa), mẹ - con (Mẹ), bà mẹ - chiến sĩ (Ảnh lửa), tác giả - con chim (Con chim tà vặt)... Việc xuất hiện trong bài thơ những cặp nhân vật và dạng thức liên kết này càng làm rõ thêm chất tự sự của tác phẩm đưa nó vào phổ hệ của thể điệu hát Giặm. Kiểu kết cấu liên kết sóng đôi này ta thấy lặp lại ở nhiều bài thơ hiện đại Xứ Nghệ. Có thể thông qua lời độc thoại của người vợ (Thăm lúa), có thể là lời đối thoại của người con với mẹ (Mẹ, Ánh lửa), có thể là lời kể của tác giả (Đêm nay Bác không ngủ, Con chim tà vặt), nhưng trong bài thơ luôn xuất hiện hai nhân vật, hai nhân vật này tác động hỗ trợ cho nhau cùng tồn tại song song trong một kết cấu chung.

Hướng vận động chính của bài thơ là “kể chuyện”, bởi vậy cách sử dụng  các thủ pháp nghệ thuật khác như cách chọn chi tiết, cách xây dựng hình ảnh, cách sử dụng ngôn ngữ, cũng có những nét riêng để tạo một sự tương thích với hướng vận động chính của tứ thơ.

Các bài Giặm cổ ít chú ý biện pháp tu từ hình ảnh như ta thường gặp trong ca dao, tục ngữ mà chủ yếu xây dựng các chi tiết để khắc họa câu chuyện kể. Cũng vậy, nếu những bài thơ trữ tình lấy mạch cảm xúc làm hướng chính triển khai tứ thơ thường chú trọng xây dựng những hình ảnh độc đáo nhằm đánh mạnh vào cảm giác người đọc thì những bài thơ theo hướng kể chuyện lại chú ý đến cách chọn các chi tiết “đắt” nhằm gây ấn tượng bên trong, vào cảm xúc, vào nhận thức. Một nhà thơ kiểu trên có thể thích thú với các hình ảnh “Mặt trời rung như một nốt đàn cao” (Bằng Việt), thì các nhà thơ kiểu dưới lại ưa đặc tả các chi tiết. Nói đến thơ là nói đến hình ảnh, nhiều nhà thơ và nhà phê bình đã có nhiều ý kiến hấp dẫn về vấn đề này. Tuy nhiên, không phải không có hình ảnh thì thơ không hay. Có nhiều bài thơ, nhiều câu thơ không hề có một hình ảnh nào mà vẫn rất hấp dẫn. Cái thay được cho hình ảnh đó là chi tiết “đắt”. Trong bài thơ “Ánh lửa”, khi nói tấm lòng của bà mẹ trong đêm có các chiến sĩ hành quân vào nghỉ trọ, bà mẹ ngồi hong áo cho các con, kết thúc bài thơ tác giả đưa ra một chi tiết: Ngồi nhẩm tên từng đứa/ Mẹ mong đêm nay dài (Xuân Hoài). Chi tiết “nhẩm tên từng đứa” để nhớ kỹ, “mẹ mong đêm nay dài” để các con được nghỉ cho lại sức mai đi chiến đấu và đêm dài để mẹ được gần các con lâu hơn, nhiều hơn... đã nói rõ tấm lòng bà mẹ và làm xúc động mạnh người đọc. Hay những chi tiết như: “Sợ cháu mình giật thột, Bác nhón chân nhẹ nhàng” (Đêm nay Bác không ngủ), hay “Sắp đến chỗ người đông, anh bảo em ngoái lại” (Thăm lúa) thật giàu sức biểu hiện. Nó khắc họa khá tinh tế cái phẩm chất thẩm mỹ của nhân vật trữ tình mà không cần bất cứ một sự bổ trợ hình ảnh có tính chất tu từ nào khác. Hay như trong bài kể chuyện côgái phá bom hy sinh ở Đồng Lộc, tác giả sử dụng khá đắt cac chi tiết giàu tính tự sự để làm rõ sự thương nhớ của đồng đội: ... Cúc ơi em ở đâu/Đất nâu lạnh lắm/ Áo em thì mỏng/ Cúc ơi em ở đâu/ Về đây với bọn anh/Tắm nước trong Ngàn Phố/Ăn quít đỏ Sơn Bằng/ ...Em ở đâu hỡi Cúc (Cúc ơi! - Yến Thanh).

 2- Ảnh hưởng về thể tài và ngôn ngữ:

Trên bình diện thể tài, các bài giặm và thơ năm chữ có một âm hưởng riêng, đó là tiết tấu. Trước hết tuy là thể thơ năm chữ (ngũ ngôn) nhưng những bài ngũ ngôn của thể giặm và thơ năm chữ xứ Nghệ có cái khác với các bài ngũ ngôn thông thường cũng như ngũ ngôn Đường luật Trung Hoa. Đa phần các câu thơ trong bài giặm cũng như các bài thơ năm chữ của các tác giả kể trên tiết tấu thường là nhịp 3/2, khác các bài ngũ ngôn thông thường và ngũ ngôn Đường luật nhịp 2/3. Ta có thể tiếp cận đặc điểm này qua các so sánh sau:

Hát Giặm cổ (Nhịp 3-2):
Nhút Thanh Chương/ cũng ngọt, Kể chẳng mấy/ đồng tiền, 
Xơ mít chất/ đầy hiên, Băm một khi/ tám nôống,
Băm một lần/ tám nốống

                     (Giặm: Nhút Thanh Chương)
Anh bước chân/ đi ra, Là ngày đầu/ phòng ngự
Bước qua kỳ/ cầm cự/ Anh có gửi/ lời về
Cầm thư anh/mân mê,/ Bụng em giừ/ phấp phới... 

                             (Thăm lúa - Trần Hữu Thung)

….

Thơ ngũ ngôn Đường luật - Trung Hoa (Nhịp 2-3):

Yên thảo/ như bích ti, Tần tang/ đê lục chi.

Đương quân/ hoài quy nhật, Thị thiếp/ đoạn trường thì

Xuân phong/ bất tương thức/ Hà sự/ nhập lai vi?

                         (Xuân tứ - Lý Bạch)

Tác dụng của cách ngắt nhịp này, bước đầu chúng tôi thấy nhịp 3/2 làm cho bước đi của câu thơ khoan thai, trầm tĩnh chịu được cái sự dài hơi của câu chuyện, nhịp 2/3 có vẻ đột ngột thích hợp cao trào cảm xúc của những bài thơ ngắn.       

Xét về mặt ngôn ngữ, nhiều bài thơ xứ Nghệ thường sử dụng cách láy lại mà hát Giặm thường có, láy từng cặp câu để liên kết cảm xúc các phần của bài thơ. Câu đầu đoạn dưới hay láy lại câu cuối đoạn trên. Các tác giả sử dụng nghệ thuật láy lại một cách tùy biến, cũng có khi láy lại các câu giữa khổ với nhau, có khi láy cả câu, có khi chỉ láy một số từ, có khi láy cả ý lẫn lời. Âm điệu của đoạn thơ bởi vậy trở nên phong phú hơn. Đây là một nét đặc biệt mang rõ âm hưởng hát giặm. “Giặm” tiếng Nghệ Tĩnh có nghĩa là thêm vào, láy lại cũng tức là thêm vào. Ví dụ: Cuốc kêu lâu cuốc rũ/Ve hát mãi ve sầu/Mẹ nghĩ trước nghĩ sau/Rưng rưng hàng nước mắt/Tay gạt hàng nước mắt… (Hát Giặm cổ)

Trong thơ hiện đại xứ Nghệ, bài “Gửi bạn người Xứ Nghệ ”của Huy Cận có nhiều câu láy lại làm cái chất Nghệ hiện lên rất rõ:

Ai ơi, cà xứ Nghệ/ Càng mặn lại càng dòn/ Nước chè xanh xứ Nghệ/ Càng chát lại càng ngon/ Khoai lang vàng xứ Nghệ/ Càng nhai kỹ càng bùi
Cam Xã Đoài xứ Nghệ/ Càng chín lại càng tươi/ ...Ai đi vô nơi đây/ Xin dừng chân xứ Nghệ/ Ai đi ra nơi này/ Xin dừng chân xứ Nghệ..

Để tạo được một hiệu ứng thầm mỹ giàu sức cộng hưởng với quần chúng, xét trên phương diện “chất“chất mật ngôn ngữ” (theo cách nói của M. Gorky), các tác giả đã sử dụng khá nhuần nhuyễn lời ăn tiếng nói của nhân dân Nghệ Tĩnh, trong đó có cái lối ví von, vần vè mộc mạc của các câu chuyện “trạng” miền Trung cùng với nhiều vốn từ địa phương. Hãy nghe tác giả nói về sự dữ dằn của chiếc tàu bay Mỹ: … Khi chưa đánh thằng Mỹ/ Nghe đồn ngược đồn xuôi/ Thần sấm Mỹ già đời/ Bay rách nón, rách tơi Bay gãy chọng (giường), bể nồi/ Dừ (Giờ) đánh thằng Mỹ rồi/ Tôi nghĩ cũng nực cười Thần sấm Mỹ già đời/ Trôốc (đầu) th́ì nậy( lớn) hơn đuôi/ Chui đằng mô cũng đạn Lủi đằng nào cũng đạn… (Thần Sấm ngã - Thanh Bình)  

3- Ý nghĩa hiện đại:

Trong những năm gần đây, người đọc chú ý nhiều đến những tìm tòi đổi mới thơ về thi pháp. "Tân hình thức” là một khuynh hướng được nhiều tác giả lưu tâm với các yếu tố như tính truyện, kỹ thuật lặp lại, tính đời thường, khai thác ngôn ngữ sắc thái địa phương… Tìm hiểu những yếu tố tương đồng giữa vè giặm và thơ ca Xứ Nghệ, ta thấy một số yếu tố của thi pháp tân hình thức kể trên quả thật đã xuất hiện từ lâu trong nghệ thuật dân gian vè giặm mà thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh trước đây cũng như dòng thơ Xứ Nghệ hiện đại đã sử dụng làm gần gũi hơn những cảm xúc công chúng..

  Trên đây chúng tôi thử nêu mấy nhận xét về sự ảnh hưởng của các yếu tố Giặm, Vè trong thơ ca Nghệ Tĩnh hiện đại. Sự ảnh hưởng này không nhằm khẳng định giá trị hơn kém, mà chỉ góp phần xác định phong cách các tác giả và sự đóng góp của cái gọi là sắc điệu riêng của thơ ca Nghệ Tĩnh trong nền thơ Việt Nam, góp phần khẳng định  các yếu tố làm nên bản sắc dân tộc cũng như tính hiện đại trong thơ nói riêng và văn chương nói chung.

H.Q

. . . . .
Loading the player...