16-05-2025 - 00:24

Giới thiệu truyện ký Nỗi niềm ai tỏ của Tác giả Võ Minh Châu

Tạp chí Hồng Lĩnh Số đặc biệt - Số 223+224 (tháng 3+4/2025) kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền nam thống nhất đất nước và Tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025) trân trọng giới thiệu tác phẩm NỖI NIỀM AI TỎ của tác giả Võ Minh Châu

Nỗi niềm ai tỏ

 

Truyện ký

VÕ MINH CHÂU

 

Phải mất ngót một ngày, tôi mới tìm được địa chỉ ở đợ của bà cụ 82 tuổi, là mẹ của hai liệt sỹ. Khi con chó còi cọc vừa hóc hách mấy tiếng. Cô chủ lóng ngóng chạy vô tìm bà ở. Tiếng gọi líu ríu nửa như lo sợ nửa như vui mừng:

- Bà à ơi! Có - chú cán bộ - trên về - tìm bà ấy mà…

Nghe nói “Trên” về là bà Trần Thị Đạt lịch ịch bế cháu lẫm đẫm lần ra. Cô chủ đón lấy thằng bé. Bà già chạy đến gọi được hai tiếng: “Chú ơi!”… Rồi ngồi xụp xuống khóc như được đón người từ cõi tử biệt trở về. Hơn dăm phút giải tỏa được khối nước mắt bao năm dồn ứa lại, bà mới gắng gượng nói được một câu:

- Khổ thân tôi lắm chú nờ…

Thế rồi điệp khúc nức nở vẫn tiếp diễn thều thào trong giọng nói của người mẹ trọn đời bất hạnh. Biết bà đang xúc động mạnh, tôi đành lánh ra quán nước, một lúc rồi mới trở vào. Cuộc trò chuyện khởi đầu bằng một câu ví ngắc ngứ…  đứt quãng:

“Buồn từ… trong ngõ buồn ra

Buồn ngoài ngã bảy… ngã ba… buồn về…”.

Hồi chưa gặp bà cụ, tôi đã nghe anh Nguyễn Tiến Chưởng - Hiệu trưởng Trường cấp 3 Nguyễn Huệ khen ngợi: Đây là một “Nghệ sĩ” dân gian. Bà Đạt có tài ứng khẩu hàng trăm câu đối đáp. Đấy là một kho truyện cổ tích và hàng trăm câu ca dao ví Giặm quê nhà. Bà đã ngoài 80 mươi rồi mà đầu óc vẫn như chiếc máy vi tính. Bà đã ngồi trích lại từng đoạn trong “Cuốn băng ghi âm” của đời mình:

- Sinh năm 1912. Tài sắc chẳng kém ai. Nhưng nhà nghèo thất học. Thời tuổi trẻ, suốt 18 năm đi ở khắp đất Hà Tĩnh cùng chốn Quảng Bình. Là Phận gái lỡ thì, bà cam tâm làm lẽ. Mang danh là gái có chồng nhưng còn cực hơn kẻ chửa hoang. Lần lượt 3 đứa con được sinh hạ trong túp lều dột nát. Ngày hai con trai lớn khôn, mẹ chưa kịp nhờ… thì đất nước gặp cảnh chiến tranh. Cả hai đứa lên đường. Cả hai đều hi sinh trên chiến trường Quảng Trị. Cô gái út lấy chồng ở Thanh Hóa, sinh một mạch 7 mặt con, lại gặp phải anh chồng cờ bạc, sạt nghiệp đến tận móng nhà.

Túp lều tranh xêu vẹo của bà Đạt bị bão xô đổ từ năm 1972. Điệp khúc của cuộc hành trình lang thang bắt đầu từ đó. Bao nhiêu người hỏi bà cụ: “Vì sao chẳng ở con gái mà lại nương thân cửa nhà người…?”. Bà nghẹn ngào đáp lại: “Phận nó nghèo không đủ gạo nuôi con… biết lấy chi mà nuôi mẹ… cả nhà hơn chục người, nhét nhau vào một ổ. Do đói ăn, khát uống mà sớm tối cắn nhau như chậu dam kềnh… Tôi phải đi ở để tự kiếm lấy nơi ăn, chốn nằm. Sống được ngày nào hay ngày ấy… Đã mấy chục lần tôi lên xin các ông xã… dựng cho tôi túp lều tre lấy chỗ chui vào chiu ra…  thế mà họ hẹn hết tháng này sang năm khác… Thậm chí cả đồng tiền xương máu con tôi mà có ông chính sách còn trừ xuôi bớt ngược. Tháng Chạp với tháng Giêng mất 4 chục ngàn. Tháng hai vừa rồi trả gạo, họ bớt mất hơn 2 yến… Thế là tiêu chuẩn của tôi 4 tháng, họ ăn chặn mất hơn 100 ngàn đồng. Đã thế họ còn lừa rằng đây là khoản tiền chúng tôi tiết kiệm cho bà… đợi lúc bà chết chúng tôi lo… hòm vỏ… Nói là tiết kiệm nhưng biên lai chứng từ, sổ sách ở đâu…?

Khi mẹ con bà Đạt thắc mắc thì “Ông chính sách” bảo rằng lên huyện mà hỏi. Tôi đã cầm những giấy tờ và cuộn băng ghi âm lời bà Đạt đến hỏi chị Nguyễn Thị Hưng, Phó phòng Lao động Thương binh Xã hội huyện Kỳ Anh - chị Hưng trả lời dứt khoát: “Huyện không hề có chủ trương yêu cầu các gia đình chính sách tiết kiệm theo kiểu ấy… Nếu ai giữ tiền bà Đạt thì phải được bà thỏa thuận và phải có giấy biên nhận, sổ sách ghi rõ ràng…”.

Còn ngôi nhà tình nghĩa của bà Đạt, theo chị Hưng cho biết: “Xã báo cáo lên đã làm từ lâu”. Về khoản này tôi cãi lại là: Chưa hề có. Trời cùng, có anh cán bộ Thường vụ Đảng ủy xã Kỳ Bắc đùng đùng xuất hiện. Chị Hưng vừa hỏi qua: “Nhà bà Đạt đã làm chưa?” Anh cán bộ Thường vụ nọ trả lời dứt khoát:

- Nhà bà Đạt đã làm từ lâu rồi.

Nghe anh nọ nói liều đến vậy, tôi đành rút bút giấy vẽ sơ đồ khu vực trung tâm xã Kỳ Bắc, nhờ anh nọ chỉ vị trí ngôi nhà tình nghĩa này làm ở đâu? Và làm lúc nào? Anh nọ không nhìn vào sơ đồ tôi vẽ mà miệng cứ cương quyết khẳng định ngôi nhà ấy xã đã làm từ lâu rồi. Trước tình thế: Hai ý kiến có vẽ áp đảo, tôi đành phải công bố “Sách trắng”:

-“Nếu nhà bà Đạt, các anh đã làm từ sau 4 giờ chiều ngày hôm qua thì tôi chịu. Còn nói như anh, xã đã làm từ lâu rồi là nói phét. Chiều qua lúc 3 giờ tôi vẫn ở Kỳ Bắc thì nhà cửa đã có động tĩnh gì đâu. Bà Đạt vẫn đang đi ở bồng con cho nhà cô Lý Luật ở Kỳ Phong. Nếu anh cam đoan được là đã có nhà cho bà Đạt… thì tôi với anh ngay bây giờ, cứ về Kỳ Bắc chụp luôn mấy kiểu ảnh”. Biết không thể mập mờ chối quanh được nữa, anh cán bộ nọ quay sang tìm hướng ngụy biện khác:

- Bà Đạt ấy là một người ngoa mồm lắm… cho nên…

Anh ta vừa nói lập lững chưa xong câu… tôi đã đế luôn vào ý anh định nói tiếp:

- Vì bà ngoa mồm cho nên các anh để cho bà ta đi ở cho biết mặt chứ gì…? Anh là cán bộ chủ trì mà phát biểu như vậy là hỏng. Đến như con cóc con nhái, ngày đi kiếm ăn, đêm về cũng có cái hang để trú ẩn… Huống đây là mẹ của hai liệt sĩ. Gần 20 năm nay, người mẹ bất hạnh ấy không có chỗ để cắm nén hương thắp cho vong hồn những người con đã hi sinh vì đất nước. Nếu nay mai khi bà Đạt nhắm mắt xuôi tay, chiếc quan tài của cụ các anh định đặt ở nơi nào…?”

Trước lời lẽ hơi nóng giận của tôi… khiến anh cán bộ kia đành im lặng…

Sau bận ấy, tôi lại trở lại về xã Kỳ Bắc để thăm dò ý kiến của chính quyền. Ông Chủ tịch ủy ban nhân dân xã bộc bạch rằng:

- 27 tháng 7 này  thì sẽ không kịp. Nhưng chúng tôi hứa đến 22 tháng 12 sắp tới là sẽ khánh thành Nhà Tình nghĩa cho bà Nguyễn Thị Đạt. Dịp đó mời anh về cùng dự cho vui…

Trước lúc chia tay, tôi còn gợi ý với ông Chủ tịch xã:

- Các anh đừng cầu toàn, bà Đạt nói với chúng tôi rằng: Chỉ cần xã cho một túp lều tranh, đủ để che nắng, che mưa là được. Chẳng mái ngói tường vôi làm gì. Bà chẳng sống được bao nhiêu năm nữa đâu… Nếu các anh không làm được, chỉ cần nói một câu là chúng tôi kêu gọi địa phương khác cùng hỗ trợ.

Thế rồi ngày 22/12 năm ấy. Theo lời hẹn, chúng tôi về dự khánh thành “Nhà Tình nghĩa”, thì bà Đạt vẫn khăn gói đi ở đợ tận đâu đâu… còn túp lều tình nghĩa kia vẫn nằm trong “Bộ nhớ” của các nhà chức trách. Các ông xã lại gãi đầu, kêu ca khó khăn, và hẹn tiếp đến Tết Âm lịch… Dịp sát chúng tôi lại về thì xã mới giao cho ông đội nọ chuẩn bị được mấy que gỗ như kiểu làm nhà mồ. Còn bà Đạt vẫn khăn gói đi đâu biệt âm vô tín. Thế rồi “Túp lều Tình nghĩa” được gia hạn lần thứ 3: Vào Rằm tháng Hai âm lịch… Hôm ấy ông xã bắt tay tôi chặt hơn. Tưởng rằng: “Sự bất quá tam” đã hết. Tôi vội vàng lặn xuống Kỳ Giang tìm được bà Đạt tại nhà cô Hiền. Hai bà cháu hẹn ngày ấy cùng về dự lễ khánh thành nhà mới. Nghe tôi mách vậy, bà Đạt vui lắm, bà nói nói, cười cười rằng: Tui mà được túp lều rồi là chẳng cần đi đâu cả…

Đúng ngày ấy, tháng ấy, bà dặn dò cô chủ, hí hửng xách nón về “Nhà mình…” ngờ đâu vừa chạm vách chân đến đầu làng, gặp một ông xã… mới hay là nhà tình nghĩa của bà hiện đang dự kiến xây dựng tận trên Chùa Chìm Chim…

Sau lần ấy bà không bao giờ nhắc đến nhà cửa chi nữa. Lại được tin, cô Hoa Linh ở mãi tận Thị trấn Kỳ Anh cần môt người bế cháu. Dẫu đã bước sang tuổi 84, bà vẫn chống gậy lọ mọ lên đường. Dạo ấy bận việc nhiều không ra Kỳ Bắc được, nghe cô Cúc ở Phòng Lao động Thương binh xã hội Kỳ Anh mách, bảo… Thế là tôi đến chỗ Hoa Linh gặp bà… Tưởng rằng những khát vọng mong chờ hạ đẳng của bà đã thành chai sạn. Ngờ đâu thấy tôi đến là bà khóc lóc khẩn cầu:

- Chú ơi! Chú có cách chi nói với xã làm cho tôi túp lều kẻo khổ… Bây giờ tui đã 84 tuổi rồi chẳng biết sống hôm chết mai thế nào… Đời tui răng mà khổ rứa. Hồi còn khỏe mạnh, tui cũng tham gia hết công này việc nọ. Khi bộ đội, dân quân trực bắn máy bay trên đồi là tôi nấu nước, nấu khoai gánh lên ủng hộ. Khi máy bay bắn phá Cầu Kênh, Cầu Núc là tôi gánh bổi ra lấp hố bom thông đường… Chỉ vì hai đứa con tôi hi sinh… Tôi như mất hai cánh tay bị chặt… nên mới khổ thế này…

Giữa tháng 5/1993 tôi lại về Kỳ Bắc lần nữa. Sau đó hai tháng thì ngôi nhà tình nghĩa được ra đời. Xã mua lại cái bếp nấu của người trong làng, đem ra dựng bên trục đường Liên Hương. Túp lều nguyên thủy vốn được lợp lá cây mây, đã cùn tận cuống. Nay dở ra lợp lại trong cứ xù xì như con dũ dĩ…. Tôi chẳng dám đặc tả thêm… sợ các nhà chức trách lại phê… “Sa” vào chủ nghĩa tự nhiên, dùng những từ ngọa dụ… Thôi thì… Cái hình thức bên ngoài coi như không đáng ngại… Nhưng khổ một nỗi: Cứ ba hột mưa là khiến bà già ôm chiếu chạy vòng quanh. Trên mái là vậy mà dưới nền cũng thế mà thôi. Chẳng biết thầy địa lý nào chọn đầm đất cho bà mà đặt ngay cạnh dòng chảy của mương thoát nước nhà hát xã… Chẳng đợi lũ lụt… Hễ có ba hạt nước mưa cóc là nước tìm về đây để đùa nghịch trêu chọc bà già… Khiến một góc nền gian buồng đã bị xói lở….

Hôm bàn giao nhà, bà khóc lóc không muốn nhận. Khi các ông xã về, tôi mới đến. Là người cũng dễ tính, nhưng nhìn ngôi nhà của mẹ 2 liệt sĩ, tôi đau nhói đến đỉnh đầu.

Trăm người đi qua hơn chín chục lời bàn tán theo chiều chê trác xã… Có người độc khẩu còn bảo rằng: Nhà tình nghĩa kiểu chi ấy… Cái chuồng lợn nông dân vẫn sang trọng hơn nhiều… Thôi thì cho nó mồi lửa…

Tôi đứng ra can ngăn người ngoài và thuyết phục bà cụ về ở… Nay mọi việc tạm yên yên. Nhưng chỉ là yên khi trời tạnh ráo… Xã đã lo cho bà chiếc giường. Nhưng khổ thân là bà không có màn… Đêm đêm cứ phơi da thịt làm “Mắm”  cho muỗi…

Suốt một đời nuôi con, không được cậy nhờ. Ngay cả giọt máu nuôi giữ nòi giống cũng mất. Đến đồng tiền chính sách bấy nhiêu năm trục trặc, nay được hưởng chút lộc con… lại gặp phải hoàn cảnh đông cháu… Bà đành lòng cho con gái nó “Mượn” cuốn sổ ấy để nộp thế chấp vào ngân hàng, vay vài triệu đồng mua đôi bò vừa cày kéo, vừa cho sinh sản. Bây giờ bà đã biết nhìn vào đâu? Mùa màng thất bát. Con chưa nuôi nổi cháu, lấy gì mà nuôi bà. Tám mươi tư tuổi rồi… mới có được ngôi nhà tình nghĩa “Động trời” trong vài tháng…  mà ở chẳng an. Nay bà lại xắm nắm trở lại vòng trầm luân đi ở kiếm nơi ăn, chốn nằm… Hôm gặp bà,  cách đây nửa tháng, bà nhờ tôi xin hộ cho màn nằm kẻo muỗi nó hút hết máu… Tôi đã hứa với bà là sẽ có… Chẳng biết sau một tháng đi công tác… Ngày trở lại… Bà già 84 tuổi như ngọn đèn, nguồn dầu đã cạn, đang lay lắt giữ gió, biết có còn chăng? Giá như lúc ấy tôi cầm chiếc màn về thì cũng chỉ đốt thành tro và khói… rồi nén hương, tôi với bao người dâng lên linh hồn bà cụ Nguyễn Thị Đạt… Chẳng biết có thấu đến Cửu Trùng hay không?

Quê hương đất nước đang đổi thay. Mỗi lần lên phố huyện, ra tỉnh lụy thấy nhà lầu, xe cúp san sát, sang trọng vi vu… thật đáng mừng. Những dịp như vậy làm chúng tôi chạnh nghĩ đến nhiều bà mẹ liệt sĩ quê tôi đang sống thiếu chăn đắp… và thiếu… đủ thứ. Trong khi đó mỗi năm bốn mùa hai vụ thóc tình nghĩa xã vẫn chiết trừ, tiền tình nghĩa xóm làng vẫn đóng góp, ủng hộ ai?

Quanh năm đến ngày giỗ, tết, lễ hội các cụ luôn thắp hương khấn vái tổ tiên và các bậc thần thánh phù trì bảo hộ… cho con cháu. Chẳng biết khói hương và lời khấn ấy có thấu đến Cửu Trùng hay không?

                            Tháng 11/1993

                                           V.M.C

. . . . .
Loading the player...