15-10-2025 - 01:02

Cùng mùa thu tưởng nhớ Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới

Tạp chí Hồng Lĩnh số 229 trân trọng giới thiệu bài viết “Cùng mùa thu tưởng nhớ Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới” của Phạm Tuấn Vũ

Một ngày thu năm 1442, Nguyễn Trãi đã ngã xuống dưới lưỡi gươm oan nghiệt ...

Nhìn lại lịch sử Việt Nam thời trung đại, chúng ta thấy hiếm có một tài năng trên nhiều lĩnh vực như Nguyễn Trãi. Ông là nhà chính trị kiệt xuất, vị anh hùng dân tộc, nhà thơ nhà văn lớn, là danh nhân văn hóa thế giới. Và điều còn quan trọng hơn là trong những điều kiện thuận lợi hay khó khăn, con người tài năng nhiều mặt ấy không chỉ để lại sự nghiệp lớn của riêng mình mà đã có những cống hiến tối ưu cho dân tộc và đất nước.

Đã có biết bao lời ngợi ca Nguyễn Trãi. Ở đây chúng tôi nhớ lời của Nguyễn Mộng Tuân, một nhà nho cùng thời: Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền (tài lo liệu việc nước, làm cho đất nước văn minh từ xưa chưa có ai hơn ông). Bốn chữ Kinh bang hoa quốc khái quát được công lao to lớn trên nhiều lĩnh vực của tài năng xuất chúng này.

Ngày nay nhân loại sống theo nhiều ý thức hệ, bởi vậy không phải giá trị nhân văn nào cũng được người ta tiếp nhận. Những vĩ nhân có tư cách danh nhân văn hóa mới đến được với số đông. Tư cách anh hùng dân tộc bên cạnh tư cách danh nhân văn hóa tạo nên chân dung hoàn chỉnh về Nguyễn Trãi, cũng như sức khái quát của bốn chữ của người xưa vừa dẫn.

Nguyễn Trãi (1380-1442)

Nguyễn Trãi sinh ra và trưởng thành trong thời kỳ xã hội Việt Nam có những biến động lớn. Nhà Trần sau thời kỳ có những chiến công vệ quốc huy hoàng và những thành tựu kiến quốc làm cho nước nhà có thời kỳ phục hưng thực sự, đã bước vào mạt kỳ. Nhà Hồ thay thế có nhiều cải cách, vấp phải sự chống đối quyết liệt của cựu thần nhà Trần và những người có quyền lợi bị động chạm. Ngoài biên cương nhà Minh kéo quân sang xâm lược với chiêu bài xảo trá “phù Trần diệt Hồ” (giúp đỡ nhà Trần, diệt trừ nhà Hồ). Người ta thường nói hoàn cảnh khắc nghiệt đè bẹp những ý chí không đủ mạnh và tài năng không đủ lớn, lại có tác dụng tôi luyện những người có phẩm chất để đương đầu, làm bộc lộ những giá trị mà trong điều kiện bình thường khó thấy. Nguyễn Trãi thuộc trường hợp sau.

F. Ăng ghen từng nói đến lẽ phải thông thường và lẽ phải theo tư duy triết học. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi có những biểu hiện như là nghịch lý của lẽ phải thông thường. Nguyễn Trãi là cháu ngoại của quan đầu triều nhà Trần – tể tướng Trần Nguyên Đán, và có hai mươi năm là thần dân nhà Trần. Vậy mà khi nhà Hồ thay thế nhà Trần, ông không chút mặc cảm đã đến với tân triều, thi đỗ thái học sinh (1) và được cử đứng đầu Ngự sử đài, bộ phận có chức năng can gián vua và đàn hặc (2) các quan. Khi nhà Hồ thất bại, ông không nghĩ đến việc cứu vãn triều đại này cũng như đã từng không nghĩ đến việc cứu vãn nhà Trần. Dưới thời Minh thuộc có hơn sáu mươi cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đến với khởi nghĩa Lam Sơn, dù người đứng đầu – Lê Lợi không phải dòng dõi tôn thất hay một trí thức có danh vọng, mà chỉ là một điền chủ ở miền tây Thanh Hóa heo hút với một nhóm người ít ỏi (3). Trong thời gian tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã sử dụng ngòi bút như một vũ khí (ông gọi là đao bút).

Đóng góp của ông đã góp phần làm nên một chiến công không gì sánh nổi (vô cạnh chi công – Bình Ngô đại cáo), đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, nhà Hậu Lê được lập nên và đất nước phát triển đến cực thịnh, nước nhà có thời kỳ hòa bình dài nhất trong lịch sử: Nước thanh bình ba trăm năm cũ... (Chinh phụ ngâm). Nhãn quan chính thống chưa bao giờ chi phối suy nghĩ và hành động của con người này. Tuổi đôi mươi Nguyễn Trãi đến với Hồ Quý Ly không vì bồng bột. Sự nghiệp của Hồ Quý Ly ngắn ngủi nhưng đủ thăng trầm, tuy vậy nhận thức và tình cảm của Nguyễn Trãi về con người này là nhất quán. Ông coi Hồ Quý Ly là bậc anh hùng và cảm thông với nỗi hận thiên cổ anh hùng di hận kỷ thiên niên (người anh hùng để lại mối hận mấy nghìn năm). Trong văn bản trọng đại Bình Ngô đại cáo ban bố nhân danh người sáng lập nhà Hậu Lê, Nguyễn Trãi đánh giá Hồ chính chi phiền hà (chính sự nhà Hồ phiền hà). Tất cả đều thấu tình đạt lý, không khác mấy đánh giá của người hôm nay (đến đây chợt nhớ lời của V.Lênin). Vị lãnh tụ thiên tài cho rằng có một tài năng đặc biệt, đó là tài nhận ra tài năng của người khác). Nguyễn Trãi là một đại tác gia văn chương chữ Hán nhưng ông không hề coi nhẹ văn chương chữ Nôm, đã để lại Quốc âm thi tập 254 bài, tập thơ Nôm quy mô sớm nhất. Con người Nguyễn Trãi công lao lừng lẫy, đạo đức trong sáng nhưng kết cục cuộc đời vô cùng bi thảm. Ông bị nhà Hậu Lê kết án tru di nhưng chính một vị vua Lê đời sau khẳng định lòng Ức Trai sáng như sao Khuê (Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo – Lê Thánh Tông).

Những điều này hiển nhiên là nghịch lý của lẽ phải thông thường. Có lẽ do sống trong hoàn cảnh riêng chung có nhiều điều đặc biệt, con người tài năng và bản lĩnh lớn này lại không bằng lòng thuận theo thói thường!

Năm 1980 UNESCO vinh danh Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới. Người ta biết nhiều hơn về ông. Từ Hungary xa xôi, Tônđôri Đeduê cho rằng “nhà thơ chỉ xa cách chúng ta về thời gian mà không có gì ngăn cách với chúng ta trong không gian”. Bình Ngô đại cáo được đặt bên cạnh những bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp, Mỹ... Văn bản đã nói đến khát vọng to lớn muôn đời của con người đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo. Đặc biệt là trong hoàn cảnh xã hội phong kiến phương Đông u tối ngưng trệ, bản đại cáo đã đạt tầm lý tính hiếm thấy. Nó đã thấy những yếu tố cơ bản nhất của quốc gia phong kiến, xứng đáng là một cống hiến ở tầm thế giới (sau này quan niệm quốc gia tư sản có thêm yếu tố thị trường, quan niệm quốc gia xã hội chủ nghĩa có thêm yếu tố cộng đồng ý thức hệ. Những điều này đều do “sự mách bảo của thực tiễn”). Thật đáng tự hào biết bao!

Khi dùng ngòi bút để đánh giặc, khi là nhà chính trị giữa triều đình, hay khi là nhà thơ vừa nặng nỗi lo đời vừa vừa thân thiết với cỏ cây sông núi, Nguyễn Trãi luôn là con người nhân ái. Ở giá trị Nguyễn Trãi ta bắt gặp tinh thần Trần Nhân Tông, vì những con người này đều tiêu biểu cho cốt cách Việt Nam.

Dịch văn chương, nhất là dịch thơ, rất khó tránh khỏi việc làm tổn thương đến những yếu tố vi diệu. Dẫu biết vậy nhưng ta vẫn tin rằng Nguyễn Trãi có những vần thơ mà dù trong những thời gian và không gian khác nhau, người đọc đều thấu cảm được niềm kiêu hãnh làm người chân chính:

Nguyệt xuyên há dễ thấu lòng trúc

Nước chảy khôn âu xiết bóng non (4)

Người ta nhận ra một quy luật phổ quát là những nhà thơ lớn thời trung đại đều có liên hệ mật thiết với thơ ca dân gian của đất nước mình. Đã có nhà nghiên cứu liệt kê những câu thơ Nguyễn Trãi và những câu ca dao tục ngữ gần gũi, từ đó kết luận Nguyễn Trãi đã tiếp thu văn học dân gian Việt Nam. Đây là việc làm hữu lý. Cũng với những cứ liệu ấy, cũng với tinh thần thực chứng ấy, nhưng chúng tôi cho rằng có thể nghĩ nhiều hơn đến chiều ngược lại: không ít câu thơ Nguyễn Trãi đã gia nhập kho tàng ca dao tực ngữ Việt Nam, nguyên dạng hay chỉ ý tứ. Có cơ sở để tin như vậy.

Phần lớn thơ Nôm được Nguyễn Trãi sáng tác cuối đời. Hoàn cảnh riêng chung tạo nên ở tác giả tâm thế chiêm nghiệm, đúc kết. Trước sau Nguyễn Trãi vẫn là nhà thực tiễn, nhà nhân văn chủ nghĩa tinh nhạy và từng trải. Đây là thơ Nguyễn Trãi:  

- Thế sự trai yêu vợ cũ

Nhân tình gái nhớ chồng xưa.

- Muốn ăn trái dưỡng nên cây (5).

Thơ Nguyễn Trãi không có tâm thế phượng hoàng độc lập (6), không có hình ảnh ngọn núi cao cô quạnh. Trái lại, nhà thơ sống giữa nhân quần đông đảo với tâm thế giản dị lão thực, anh minh đối thoại. Chúng ta biết câu thành ngữ Hán huynh đệ như thủ túc, phu thê như y phục, và cũng biết câu của Việt Nam:

Anh em như chân như tay

Vợ chồng áo mặc đổi thay tức thì

Người thì bảo dịch thật khéo, kẻ thì cho rằng đây chỉ là tương đồng không do tiếp xúc mà do tương đồng thực tiễn: ở nền văn hóa nào người ta cũng coi trọng quan hệ ruột thịt. Đừng nhọc lòng tầm nguyên, cũng như đừng mất thời gian tìm xem câu như chó với mèo xuất xứ từ đâu! Dẫu sao thì cũng không thể phủ nhận câu thơ Nguyễn Trãi là sự đối thoại với hai câu trên:

Chân tay dầu đứt khôn bề nối

Xống (7) áo chẳng còn mô(8) dễ xin

Nguyễn Trãi mở đầu dòng thơ trữ tình đạo lý trong thơ quốc âm, được Nguyễn Bỉnh Khiêm kế thừa xứng đáng và về sau còn thấy ở những câu thơ chứa chan huyết lệ của Nguyễn Đình Chiểu:

Thà đui mà giữ đạo nhà

Còn hơn có mắt ông cha không thờ

Một khi có sự tương đồng giữa sự sáng tạo cá nhân và gia sản tinh thần chung, người ta thường cho rằng cá nhân tiếp thu từ cộng đồng. Từ đây cũng dễ có quan niệm hư vô. Nói ngay ở trường hợp Nguyễn Trãi. Khoảng những năm 80 của thế kỷ trước có người cho rằng chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo là Nguyễn Trãi tiếp thu từ dân gian để chỉ người Trung Quốc với thái độ khinh bỉ. Chúng tôi đã chứng minh đến Bình Ngô đại cáo chưa có sự đối lập Minh/ Ngô. Điều này chỉ có về sau. Vậy phải nói ngược lại: chính tác phẩm của Nguyễn Trãi – tiêu biểu là Quân Trung từ mệnh tậpBình Ngô đại cáo – đã lưu giữ ký ức về giặc Minh độc ác và đáng khinh bỉ, từ đó hình thành nét nghĩa trên (9). Hiện tượng sáng tác cá nhân được dân gian hóa chúng ta còn thấy ở thời hiện tại. Có những câu tưởng là của văn học dân gian hiện đại, thực ra là thơ của Thanh Tịnh, Bảo Định Giang...

Ngày nay xu thế hội nhập rất mạnh mẽ, bất kể người ta có ý thức ở mức độ nào. Trước tác của Nguyễn Trãi như đối thoại với thế hệ người Việt hôm nay: “Người trong nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chân Lạp, Lào, Xiêm... để làm loạn phong tục trong nước” (Dư địa chí). Ở đây không có gì thần bí. Hơn hai mươi năm chứng kiến giặc Minh tàn phá văn hóa Việt đi đôi với truyền bá văn hóa Hán, khiến nhà văn hóa lớn và nhà chính trị đầy mẫn cảm Nguyễn Trãi ý thức sâu sắc về vai trò của văn hóa trong đời sống quốc gia, dân tộc.

Trong văn học Việt Nam trung đại, Nguyễn Trãi là tác gia duy nhất có sự tương xứng kép, ở bậc cao: tương xứng giữa trước tác chữ Hán và trước tác quốc âm, tương xứng giữa văn chính luận và văn chương thẩm mỹ. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là tác phẩm làm vinh dự cho một đời văn và một thời văn. Người xưa xếp văn bản này vào văn từ mệnh (hoặc từ lệnh). Đức Khổng Tử coi trọng bộ phận trước tác này nhất vì nó trực tiếp phục vụ chính sự. L.Lêônốp cho rằng “tác phẩm thực sự là sự phát hiện về nội dung, phát minh về hình thức”. Nếu cách định lượng này được dùng cho cả văn học trung đại, chúng tôi cho rằng Bình Ngô đại cáo thuộc số xứng đáng nhất. Người ta đã nói nhiều về những thành tựu tư tưởng của văn bản. Vậy còn phương diện văn thể thì sao? Về thể cáo, các bộ lịch sử văn học Trung Quốc đã dịch ra tiếng Việt và ngay cả công trình chuyên khảo Trung Quốc cổ đại văn thể khái luận(10) do người Trung Quốc viết cũng chỉ nói đến Thang cáo. Bản cáo này ngắn, viết bằng văn xuôi thô mộc, trúc trắc (11). Dễ hiểu thôi, vì nó ra đời mấy thế kỷ trước công nguyên, còn văn biền ngẫu mấy thế kỷ sau công nguyên mới có. Ông là hình ảnh đẹp nhất của loại hình nhà thơ chiến sĩ lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa (Huy Cận).

Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai đỉnh cao của thơ Việt Nam trung đại. Khi Nguyễn Trãi viết Quốc âm thi tập, chữ Nôm mới ra đời ba thế kỷ và thơ quốc âm thật ít ỏi. Rất có thể nhiều từ ngữ và nhiều cỏ cây dân dã nhờ nhà thơ mà lần đầu tiên bước vào văn học, vì vậy tập thơ có những câu mộc mạc là tất yếu, nhưng đáng quý biết bao.

Nguyễn Du làm thơ khi gia tài tiếng Việt và thơ quốc âm đã dày dặn. Lúc này cống hiến của tác giả là ở trình độ tinh luyện. Nhà thơ Chế Lan Viên đã khẳng định sắc thái riêng và cống hiến chung của hai vị tiền nhân:

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du ngâm Kiều đất nước hóa thành văn

Kim Văn Hoàng Mai, tháng Tám 2025

P.T.V

_____________

1.Tên gọi khác của tiến sĩ.

2. Đàn hặc: chỉ trích tội lỗi của quan lại.

3. Tham gia hội thề Lũng Nhai có 18 người.

4. Trăng soi sao có thể thấu được lòng trúc. Đừng lo nước chảy làm mòn bóng núi.

5. Muốn ăn quả thì phải trồng cây.

6. Chim phượng hoàng đứng một mình.

7. Xống: váy.

8. Ngữ âm học lịch sử cho biết đương thời tương thông. Mô dễ xin: không dễ có lại.

9. Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4/2008

10. Chử Bân Kiệt: Trung Quốc cổ đại văn thể khái luận Bắc Kinh đại học xuất bản xã. B. 1990 (tiếng Hán).

11. Khổng Tử: Thượng Thư, NXB Văn hóa - Thông tin, 2004.

. . . . .
Loading the player...