Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu tham luận của Nhà lý luận phê bình Hà Quảng “Về sự phát triển và đổi mới của dòng văn học địa phương Hà Tĩnh sau ngày thống nhất đất nước (1975 – 2025)” tại Hội thảo khoa học 50 năm nền Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025)
Nhà lý luận phê bình Hà Quảng với tham luận “Về sự phát triển và đổi mới của dòng văn học địa phương Hà Tĩnh sau ngày thống nhất đất nước (1975 – 2025)”
1. Truyền thống văn học và sự ảnh hưởng của yếu tố lịch sử - xã hội
Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao nền Văn học đất Hồng Lam cả văn học dân gian lẫn văn học viết, xem đây là một miền văn học có sức lan tỏa lớn (Nguyễn Đổng Chi). Điều này khá thuyết phục vì những lý do khoa học chân xác. Từ thế kỷ 13 đến hết thế kỷ 20, từ buổi sơ khởi đến những thời thịnh vượng của văn học nước nhà, Hà Tĩnh đều có đóng góp đáng kể về mặt tác giả cũng như tác phẩm. Vòm trời sao khuê (văn hoá) Hà Tĩnh nhiều thế kỷ sáng rực với nhiều tuổi tên: Các thế kỷ XII, XIII khởi đầu trong nền văn học Đại Việt có Chu Hải Ngung, Nguyễn Y Sơn. Đến thế kỷ XX lại có các tác giả Hoàng Ngọc Phách, Huy Cận, Xuân Diệu…, nhiều hiện tượng không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn ở cả nước ngoài. Văn học các thời kỳ đổi thay với những đặc điểm đều chi phối bởi tình hình xã hội lịch sử. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học trong chiều dài lịch sử là nội dung yêu nước và tinh thần nhân đạo. Tiếp tục truyền thống, Văn học Hà Tĩnh thời hiện đại đặc biệt 50 năm sau ngày thống nhât đã phát triển nhanh chóng theo tình hình đất nước.
+ Sau gần nửa thế kỷ đấu tranh có ngày thống nhất, chiến tranh chấm dứt, hòa bình tạo lập một cuộc sống mới hòa hợp, tự do yên ổn làm ăn hướng đến xây dựng một đất nước quốc thái dân an. Tuy nhiên xã hội không đồng nhất trạng thái sinh hoạt văn hóa, có sự khác biệt nông thôn và thành thị, vùng đất cũ và mới, sự phân hóa giàu nghèo rõ hơn trước, đặc biệt trong xã hội những tệ nạn, tàn dư cuộc sống cũ như tham những, dối trá, lừa gạt có phần phát triển hơn thời bao cấp, các bậc thang giá trị có nhiều biến đổi. Chủ nghĩa thực dụng có nhiều ảnh hưởng cùng với sự phát triển khoa học, công nghệ và nền kinh tế số. Văn học nghệ thuật cũng bị ảnh hưởng theo.
Đặc biệt sau thống nhất quá trình giao lưu văn hóa mở rộng, những hệ tư tưởng, các trường phái nghệ thuật phương Tây như Chủ nghĩa siêu thực, Lập thể, Tân Hình thức, Hậu hiện đại một thời thịnh hành ở miền Nam sau ngày thống nhất qua quá trình giao lưu tiếp biến lan sang cả miền Bắc ảnh hưởng trong đời sống cộng đồng, đã tác động đến sự phát triển của văn học, tuy không mạnh ở địa phương nhưng không phải không có.
2. Nội dung và đặc điểm nghệ thuật
Thời hiện đại, Văn học Việt Nam có nhiều thành tựu, không thể không nói đến sự góp mặt của văn học Hà Tĩnh, con đẻ một miền đất có những nét riêng về thiên nhiên cũng như văn hóa, đổ vào dòng chảy văn chương chung cả nước một sự phong phú đa dạng về tâm hồn con người Việt Nam thời đổi mới. Là con đẻ một vùng đất nhiều biến động, nhiều sự kiện lịch sử, điều nổi bật trướ́c tiên văn chương rất gắn bó đời sống chiến đấu và xây dựng của cộng đồng trong hơn 50 năm đầ̀y gian lao thử thách bắ́c cầ̀u qua hai thế́ kỷ, cuối 20 và đầ̀u 21. Hình ảnh con ngườ̀i Hà Tĩnh cầ̀n cù, dũng cảm giàu nghị lực và sáng tạo được thể hiện trong nhiều tác phẩ̉m. Viết về biển, nông thôn mới, công nghiệp hóa, quê hương làng nghề văn hóa và du lịch thời mở cửa, những trang văn, thơ nở rộ trên các trang sách báo trong và ngoài tỉnh. Văn chương Hà Tĩnh hội tụ vào quỹ đạo văn chương cả nước nhờ biết phát huy thành quả văn chương truyền thống từng có một bề dày trong lịch sử, biết sinh động cách tân, tiếp thu học tập những thành tựu mới.
+ Đổi mới đầu tiên của văn học thời kỳ mới là mở rộng phạm vi cuộc sống miêu tả. Đại địa văn chương tùy xứ kiến - Trên mặt đất nơi nào chẳng có văn chương - Nguyễn Du đã từng nói vậy. Phát triển theo thời gian, đi vào quỹ đạo văn học chung, đề tài văn học Hà Tĩnh đương đại xét không chỉ khuôn vào các mặt đời sống chiế́n đấu và xây dựng (cuộc sống mới con người mới) mà mở rộng biên độ trên nhiều phương diện như lịch sử, cách mạng, thế sự, gia đình, tình yêu… Một dãy dài các tác phẩm tiêu biểu, về đề tài lịch sử, chiến tranh, cách mạng, những tiếng nói ngày xưa vọng lại hôm nay. Chúng ta gặp lại hình ảnh người nghĩa sĩ Nguyễn Biểu thời Trần qua Lửa Ngàn Sâu (Đức Ban), khâm phục tinh thần các nghĩa binh thời Pháp thuộc Ký ức Paracel (Nguyễn Trung Tuyến), xúc động trước vẻ đẹp hào hùng của những người anh hùng giao thông trên những con tàu không số vận tải vũ khí cho miền Nam qua trường ca Con đường thức (Nguyễn Ngọc Phú), biết thêm sự hy sinh cao cả những người thanh niên từ biệt quê hương lập chiến công ở miền Nam thời chống Mỹ qua Ký ức chiến tranh (Vương Khả Sơn), thấy được tình đồng đội mặn nồng giữa những người lính thời chiến cũng như thời bình trong Cánh đồng thời gian (Bùi Quang Thanh)…
Đặc biệt về thế sự, các tác giả vẽ nên bức tranh quê hương thời hậu chiến bao khó khăn gian khổ không thua kém thời buổi chiến tranh, nếp sống bảo thủ và những tính toán cá nhân cùng với bao hủ tục cản trở con đường đi lên của cuộc sống: Bước thời gian (Tùng Bách), Nơi gửi bóng (Yến Thanh). Dẫu vậy những gương sáng vẫn còn đó, trong khó khăn vẫn dành chỗ cho những thiện căn, những tâm cảm đẹp đẽ Dấu thời gian (Phan Trung Hiế́u), Ngụ ngôn tháng tư (Tú Ngọc), 80 bài thơ (Duy Thảo); nhiều tác phẩm đề cao lối sống lương thiện gieo nguồn hy vọng cho thế hệ sau: Viết chờ sen lên (Trần Nam Phong), Giờ đã sang thu (Phan Trọng Tảo), Không hẹn mùa côm cốm, Giấc mơ cánh cò (Trần Quỳnh Nga), Chuyến tàu mùa thu (Trần Hải Vân),…
Trong không khí đổi mới nhiều tác giả cho ra đời nhiều tập thơ về gia đình, về tình yêu với những màu sắc nhân văn đã nhận được nhiều cảm tình độc giả: Sãi cánh giữa chiêm bao (Hạnh Loan), Xách giày cao gót cho em (Lê Văn Vỵ, hai tập thơ chuyên đề về tình yêu gây nhiều ấn tượng cho độc giả. Mẹ cười tập thơ viết về đề tài thiếu nhi của Nguyễn Văn Thanh đã được chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
+ Đổi mới cảm xúc bề sâu về con người và cuộc đời:
Nhớ lại lời nói của Aimatôp (Nga) về Chủ nghĩa nhân đạo trong văn chương Cho đến khi khoa học có thể xây lâu đài trên mủi kim thì Chủ nghĩa nhân đạo vẫn luôn bùng cháy trong trái tim con người. Khi chiến tranh văn học thiên về Chủ nghĩa anh hùng , yêu nước, lúc hoà bình là Chủ nghĩa nhân đạo, đó là lối đi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học chúng ta bao đời nay. Nhà văn từ cảm nhận sâu sắc về cái hùng trong chiến đấu và xây dựng (Mừng chiến thắng trời quê - Duy Thảo, Cánh đồng thời gian - Bùi Quang Thanh), mở rộng sang những trạng thái tình cảm mới, về Chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc đời. Đó là nỗi đau thương vì mất mát trong chiến tranh: Cúc ơi em ở đâu/ Đất nâu lạnh lắm/ Áo em thì mỏng/ Cúc ơi em ở đâu/ Về với bọn anh tắm nước trong Ngàn Phố/ Ăn quít đỏ Sơn Bằng/ Chăn trâu cắt cỏ… (Yến Thanh - Cúc ơi). Đó là nỗi buồn về thân phận con người, sống cuộc sống bao khó khăn, trắc trở đè nặng lên tháng ngày. Những cô gái, những ông lão, những em bé sống lo lắng, lắt lay như chị Nghĩa, chị Len, chị Thảo, như ông Trìu, lão Dụt, lão Đa (Sóng bến Duềnh, Hoa bần, Ngôi sao hôm leo lét, Đền thờ Đức Thánh mẫu). Những nhân vật của Đức Ban đa phần tội nghiệp, bé nhỏ, sống với những ước vọng cũng bé nhỏ, nhưng trải nhiều nghịch cảnh như là định mệnh luôn rình rập đẩy họ vào những sự không may. Đó cũng là những băn khoăn trước cuộc đời quá thiên về đời sống vật chất thực dụng:… Người đi tích bạc góp vàng/ Tôi về chuốc cảnh thế gian khóc cười!… Trăm năm một nắm vô thường/ sao chưa rũ bỏ nỗi buồn nhân gian (Lê Quốc Hán - Mạc khải). Là sự khinh bỉ giả dối lừa lọc:… Bốn bề bát ngát xa trông/ Người đông đến thế mà không ra người! (Tùng Bách - Cọng cỏ).
Có thể nói hòa nhập vào dòng chảy sự đổi thay thời kỳ mới, văn chương Hà Tĩnh đã lắng đọng trên hai phương diện: nhận thức thêm về chiến tranh và cảm xúc đồng điệu về thân phận những con người bé mọn trong cuộc đời.
+ Sự ảnh hưởng tương hỗ, giao lưu tiếp biến. Các nhà lý luận đều chú ý đến sự giao lưu văn hóa để tạo cái mới trong văn học nghệ thuật. Ngay sau khi đất nước thống nhất GS Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn đã có một nhận định sâu sắc về vấn đề này: “… chúng ta cũng cần hiểu biết nhiều, học hỏi và tiếp thu những tinh hoa của nền văn hóa của các dân tộc, mở rộng tầm nhìn để có một quan niệm đầy đủ về cái lâu đài tráng lệ mà cả loài người đã dày công xây đắp trong mọi thế kỷ. Từ lâu giao lưu văn hóa đã thành cái nếp hầu như là một quy luật có tác động qua lại, một điều kiện tồn tại và phát triển của văn minh thế giới qua sự tiếp xúc thường xuyên và liên tục giữa các dân tộc…. Vì thế giao lưu văn hóa là một nhu cầu của nhân dân các dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau để hiểu biết nhau hơn và xây dựng một mối tình hữu nghị làm cơ sở cho cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung”. (Nguyễn Khánh Toàn - Tổng tập văn học Việt Nam - Lời tựa - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội - Hà Nội - 1980 - trang 38).
Cái mới tạo sức sống cho tác phẩm, các tác giả Hồng Lam đã không ngừng tìm tòi, tự vượt mình, vượt qua những thói quen cũ để tìm đến một lối viế́t mới hiện đại nhưng giàu bản sắc dân tộc. Dẫu số lượng tác giả không đông, tác phẩm hàng năm xuất bản không nhiều, nhưng dòng văn học Hà Tĩnh cũng tạo được một nét riêng, nhờ sự gắn bó một vùng đất sôi động, giàu truyền thống kết hợp sự mới lạ bởi giao lưu văn hóa các dân tộc.
Đồng hành cùng nền văn học chung cả nước, văn học Hà Tĩnh phát triển trên cơ sở kế thừa những đặc sắc truyền thống văn học cha ông như cách kể chuyện, tả cảnh, diễn tình (phú, tỉ, hứng) trong VHDG, lối thơ tự do hát nói (Ca trù thể cách - Nguyễn Công Trứ), học tập lời ăn tiếng nói của nhân dân (thôn ca sơ học tang ma ngữ - Nguyễn Du), lạ hóa trong xây dựng hình tượng (Nhân ảnh vấn đáp - Phan Huy Thực), kết hợp lí luân thẩm mỹ từ các nền học thuật mới mang lại qua sự giao thoa văn hóa với các nền văn hóa khác, đã tạo nên những đặc sắc thơ văn mới.
Thời kỳ này văn học Hà Tĩnh đa phần sáng tác chủ yếu theo phương pháp truyền thống Hiện thực xã hội chủ nghĩa lấy thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng làm nòng cốt, theo thời gian nội dung thể hiện có sự thay đổi về cách cảm nhận cuộc sống, con người đa dạng, sâu sắc hơn, bên cạnh hướng đến cách tân các kỹ thuật xây dựng tác phẩm trên nhiều phương diện.
Trước hết, đáng nói là sự phát triển và biến đổi của các thể loại, ngoài truyện ngắn và thơ trữ tình, thời kỳ này Hà Tĩnh thể loại trường ca khá phát triển: Nguyễn Ngọc Phú- Trường ca Đồng Lộc, Đào Minh Sơn - Cánh diều Hải Thượng, Quỳnh Như - Tiếng đồng, Lê Cảnh Thạc - Tiếng vọng Ngàn Trươi. Có nhiều kịch bản văn học và tiểu thuyết ra đời gây ấn tượng tốt trong cộng đồng như kịch thơ Cô Tám - Phan Lương Hảo, tiểu thuyết Cái sự đời - Hậu Thịnh.
Hình thức kỹ thuật các thể loại có nhiều biến đổi. Loại hình tự sự từ kết cấu theo lối truyền thống, tuyến sự kiện phát triển theo thời gian tuyến tính, chuyển sang kết cấu theo “dòng tâm lý” hay theo lối “đồng hiện” (Đêm mù sương - Phan Trung Hiếu, Linh mộc - Tú Ngọc). Nhân vật, từ theo bút pháp hiện thực, xây dựng những cá tính bên cạnh tính chung, hành động phát triển tính cách trong những hoàn cảnh điển hình, một số cây bút tác phẩm của họ đã có sự tìm tòi cách tân trong phương thức thể hiện như Tống Phù Sa “nhân cách hóa” hoà đồng tâm trạng vật với người, Đức Ban, Phan Trung Hiếu, Phan Thế Dũng Toàn đưa vào những “chi tiết huyền ảo” tạo không khí “liêu trai” trong tác phẩm. Quỳnh Nga “giả lịch sử” để truyền đạt những thông điệp hiện đại.
Thơ trữ tình, có những đặc điểm đổi mới từ xây dựng hình ảnh theo lối tả thực truyền thống, đến kết hợp tính siêu thực, tượng trung hiện đại. Thể thơ từ đa phần theo cách luật chuyển sang tự do. Ngôn ngữ nhìn chung có nhiều đổi thay, gần gũi đời sống và sinh động hơn. Cú pháp không quá câu nệ như cũ, nhịp điệu tự do, phóng khoáng, từ vựng sử dụng nhiều phương ngữ, khẩu ngữ...
Phát triển theo sự đổi mới khá đa dạng, tuy nhiên văn chương Hà Tĩnh, về phong cách tác giả hình thành chưa thật rõ ràng, ít có những tác phẩm thật nổi bật tạo được phong cách riêng. Dẫu vậy trên góc nhìn của bạn đọc có thể thấy các khuynh hướng sau ở một số tác giả tiêu biểu. Nhiều tác giả tiếp tục truyền thống sáng tác cũ có những thành tựu ổn định: Phan Trung Hiế́u,Tống Phù Sa, Hà Lê, Trần Hậu Thịnh, Đặng Thanh Quê, Nguyên Xuân Diệu (Văn); Duy Thảo, Diệu Chi, Nguyễn Văn Thanh, Trần Nam Phong, Nguyễn Văn Hoan, Quỳnh Như, Yế́n Thanh, Quỳnh Hoa… (Thơ); bên cạnh một số tác giả có khuynh hướng hướng thiên về đổi mới, có nhiều yếu tố cách tân về cách nhìn hiện thực cũng như kỹ thuật mới. Nhiều thành tựu của họ đã được khẳng định qua các cuộc thi, các mặt báo cũng như ấn tượng trong bạn đọc: Đứ́c Ban,Trầ̀n Quỳnh Nga,Trần Hải Vân, Trầ̀nTú Ngọc, Nguyễn Ngọc Vượ̣ng, Nguyễn Trung Tuyế́n, Phan Thế́ Dũng Toàn… (Văn xuôi); Nguyễn Ngọc Phú, Tùng Bách, Quốc Bình, Văn Lê, Hồ Minh Thông, Nguyễn Thị Hằng, Thái Vĩnh Linh, Hạnh Loan… (Thơ)
3. Tổng hợp sự phát triển văn học Hà Tĩnh
Trải 50 năm số lượng tác giả, và phong trào có nhiều thay đổi, từ vài chục tác giả đã lên đến hơn 200, từ vài hội viên Hội nhà văn Việt Nam đã lên đến gần 20, từ chỗ chỉ một vài tác phẩm xuất bản hằng năm bây giờ đều đều đã có ít nhất dăm bảy. Số lượng tác giả không đông, tác phẩ̉m hàng năm xuất bản không nhiều, nhưng dò̀ng văn học Hà Tĩnh cũng tạo được một nét riêng. Nhiều tác giả để lại dấu ấn trên văn đàn cả nướ́c cùng một thế́ hệ các nhà văn lớ́p sau khá sung sứ́c tạo một dòng chảy khá bề thế trong nền văn học cả nước.
Về chất lượng, các tác phẩm ngày càng đi vào quỹ đạo của văn học quốc gia. Các tác phẩm được in ấn trên các tạp chí trung ương ngày càng đông, đặc biệt số lượng nhà văn và tác phẩm được các giải thưởng cũng vậy. Từ thời chống Mỹ có một số giải thưởng như Những Ngôi Sao - Của Xuân Hoài, Những Chuyến Xe - Lê Duy Phương cho đến hiện nay hằng năm Văn học Hà Tĩnh cũng đều có giải hoặc của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật hoặc của Hội Nhà văn, của Hội Lý luận phê bình Văn học Trung ương hoặc các báo tạp chí như Văn nghệ, Nhà văn và Cuộc sống, Văn nghệ quân đội… điều đó nói rõ sự ngang bằng của văn chương Hà Tĩnh trong mặt bằng quốc gia.
Điều đáng nói là sự tham gia đầy đủ các hội lễ quan trọng Kỷ niệm các danh nhân văn hóa tỉnh nhà: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Huy Oánh, Hải Thượng Lãn Ông… các hội thảo về Huy Cận, Xuân Diệu hay Giặm vè đều có sự tham gia tích cực của các hội viên Hội Liên hiệp VHNT Hà Tĩnh. Những bài viêt trong các tập Kỷ yếu, trên các báo, tạp chí, trong và ngoài nước.
Đi sâu vào các đặc điểm, thì ta thấy nhờ sự ba động của văn học chung cả nước và sự đổi mới theo yêu cầu cuộc sống, chất lượng và đặc trưng của văn học Hà Tĩnh trên các bình diện đã có nhiều thay đổi: các thể loại văn học phát triển đồng đều, phong cách đa dạng kết hợp đặc điểm truyền thống với sự cách tân mạnh mẽ, vận dụng những hình thức kĩ thuật hiện đại… bước đầu đã có một số tác giả hình thành được phong cách, cá tính sáng tạo của mình có ấn tượng trên bình diện quốc gia.
Trên hết và cuối cùng sự phát triển của một dòng văn học là có nhiều tác phẩm hay, bởi vậy vai trò chủ thể sáng tạo là quan trọng nhất. Nhà văn cần trau dồi tư tưởng thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng, sống một nhịp cùng nhân dân, học tập thông suốt đường lối của Đảng và Nhà nước từng thời kỳ, bên cạnh tu dưỡng nghệ thuật, nâng cao tính chuyên nghiệp luôn hướng về cái mới. 50 năm qua văn chương Hà Tĩnh đã có những thành tựu nhất định, chúng ta chờ đợi bước phát triển mới xứng đáng truyền thống cha ông./.
H.Q