Tạp chí Hồng Lĩnh số Tết Ất Tỵ 2025 (221+222) trân trọng giới thiệu tùy bút “Trăm năm trong cõi…” của nhà thơ Mai Nam Thắng
Xin được mượn câu thơ trong tác phẩm Truyện Kiều bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới, người con của quê hương Hà Tĩnh - để tỏ bày đôi điều suy ngẫm trước mùa xuân Ất Tỵ năm 2025, một mùa xuân có nhiều ý nghĩa của thiên nhiên và con người, của dân tộc và nhân loại...
Trăm năm trong cõi người ta là khái niệm ước lệ theo diễn ngôn phiếm dụ, để chỉ quãng thời gian sinh sống hiện hữu của một con người trên trái đất, dẫu dài ngắn khác nhau nhưng là cả một đời người. Mà đời người dẫu thuộc giai tầng nào, cũng đủ mọi cung bậc buồn vui, sướng khổ; cũng chứng kiến hoặc trải nghiệm biết bao nỗi thăng trầm, vinh nhục... của cá nhân và cộng đồng...
Trăm năm trong cõi đất trời chỉ là cái chớp mắt của tạo hóa, nhưng trăm năm trong chiều dài lịch sử của nhân loại là một quãng thời gian xác định cụ thể, với những biến cố thiên nhiên và xã hội theo hướng tích cực hoặc tiêu cực, có khi làm thay đổi số phận một dân tộc, một quốc gia, một khu vực lãnh thổ...
Với dân tộc Việt Nam, trăm năm dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và trăm năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một quãng thời gian đặc biệt ý nghĩa trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Dẫu còn 5 năm nữa Đảng ta mới tròn trăm tuổi (3-2-1930 / 2030) và 20 năm nữa mới đến Quốc khánh nước Việt Nam mới (2-9-1945 / 2045), nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam sau 95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là những thành tựu to lớn và toàn diện của công cuộc Đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong gần 40 năm qua, đang mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Và mùa xuân Ất Tỵ năm 2025 là cột mốc quan trọng để cả dân tộc xốc lại hành trang, phấn khởi và tự tin bước vào cuộc lên đường mới!
Sắc xuân. Ảnh: PV
Đầu Xuân Canh Ngọ năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, do lãnh tụ Hồ Chí Minh đào tạo, bồi dưỡng và sáng lập. Đây là một sự kiện quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến mà trước đó các phong trào yêu nước của các văn thân, chí sĩ như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... đều thất bại. 15 tuổi, Đảng lãnh đạo Nhân dân tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 long trời lở đất, khai sinh nước Việt Nam mới - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Tiếp đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã tiến hành hai cuộc trường kỳ kháng chiến giải phóng dân tộc, lần lượt đánh bại âm mưu xâm lược của hai thế lực thực dân và đế quốc giàu mạnh bậc nhất thế giới. Đại thắng mùa Xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đã mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên Độc lập, Tự do và Chủ nghĩa xã hội. Từ đó đến nay, dân tộc ta còn phải tiếp tục vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, chiến đấu và hi sinh... để bảo vệ hòa bình, bảo vệ Tổ quốc; tiến hành công cuộc Đổi mới để vượt lên chính mình và hội nhập quốc tế, là bạn bè thân thiện và đối tác tin cậy của các quốc gia trên thế giới.
Bài học thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, của sự nghiệp kháng chiến cứu nước và công cuộc Đổi mới, là Đảng ta đã huy động được sức mạnh to lớn của toàn dân tộc; trong đó có sức mạnh của nền văn hóa Việt Nam được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại và sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ khắp năm châu. Bài học ấy bắt nguồn từ bản chất văn hóa của Đảng ta và của sự nghiệp cách mạng Việt Nam; bởi vì “Đảng là đạo đức, là văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Và sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân… là sứ mệnh văn hóa cao cả và thiêng liêng của Đảng cầm quyền. Trong quá trình vận động cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân, cũng như trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn luôn đề cao và phát huy vai trò của văn hóa. Từ “Đề cương văn hóa Việt Nam” năm 1943, đến Nghị quyết TW5 (Khóa VIII) về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết TW9 (Khóa XI) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” là những bước phát triển biện chứng về tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng. Chỉ một năm sau ngày thành lập nước Việt Nam mới, trong hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài căng thẳng, Bác Hồ vẫn dành thời gian đến dự Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (24-11-1946) và phát biểu khẳng định: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi!”. Thấm nhuần tư tưởng ấy của Người và từ thực tiễn sinh động của công cuộc Đổi mới gần 40 năm qua, Nghị quyết TW9 (Khóa XI) của Đảng ta xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng năm 2021 tiếp tục khẳng định “xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đây là những quan điểm tiếp nối tư duy nhất quán của Đảng về mục tiêu “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân-Thiện-Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.
“Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là sự kế tục và cụ thể hóa ba yêu cầu: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc gắn liền với quốc hiệu Việt Nam dân chủ cộng hòa từ lúc khai sinh. Đó là mục tiêu nói lên bản chất sự phát triển theo quy luật tự nhiên. Dân có giàu thì nước mới mạnh, đi cùng với công bằng để đến với dân chủ và văn minh là hai mục tiêu lớn và bao trùm mang tinh thần nhân loại mà bất kể dân tộc nào, quốc gia nào, thể chế chính trị nào cũng phấn đấu để đạt được. Đó là những lý do căn cốt mà hiện nay Đảng ta, đứng đầu là Tổng bí thư Tô Lâm, chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; khẩn trương tháo gỡ những “điểm nghẽn” cản trở phát triển; chống lãng phí như chống tham nhũng; quyết liệt xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới... Có thể nói, đây là cuộc Đổi mới lần thứ hai do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Đổi mới để trẻ hóa tư duy và nội lực. Đổi mới là dám nhìn thẳng vào những cũ kỹ, giáo điều… của chính mình để tự “cởi trói” mà vượt thoát. Đổi mới là dám cắt bỏ những khối u trên cơ thể để khỏe mạnh và phát triển... Thêm một lần phẩm chất cách mạng và bản lĩnh văn hóa của Đảng ta được thể hiện một cách sinh động và thuyết phục.
Quá trình vận động cách mạng cũng như một dòng sông tuôn chảy, luôn phải tiến lên phía trước và luôn phải vượt qua mọi thác ghềnh trở ngại. Con diều bay càng cao thì càng cần có sợi dây bền chắc nối chặt với mặt đất. “Sợi dây” bền chắc ấy là nền tảng chính trị vững vàng để một đất nước vươn mình phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu. Đi cùng với ổn định chính trị là môi trường hòa bình, là bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tránh cho dân tộc mọi cuộc xung đột vũ trang, nhất là đối với những quốc gia đang nằm trong những toan tính lợi ích địa chính trị của các nước lớn. Là một đất nước đã phải trải qua những cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân Việt Nam hiểu rõ hơn ai hết sự khốc liệt của chiến tranh. Những thảm cảnh đau thương ấy đang tiếp diễn tại nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới, thống thiết nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam về giá trị vô bờ bến của cuộc sống yên ổn, hòa bình hiện nay.
Thế và lực của Việt Nam hôm nay là cơ sở vững chắc cho quyết tâm thực hiện thành công hai mục tiêu gắn với hai cột mốc “trăm năm” mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra. Cụ thể là đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam mới của thời đại Hồ Chí Minh, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Những cột mốc “trăm năm” ấy không còn xa nữa. Tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc... cùng với sự đồng tâm của muôn mọi người dân Việt Nam, cả trong và ngoài nước, là nguồn lực nội sinh to lớn, thúc đẩy quá trình vươn mình của dân tộc sớm thành công.
Và mùa xuân Ất Tỵ năm 2025 đang náo nức giục giã muôn triệu bàn chân trước cuộc lên đường mới...
M.N.T