Tạp chí Hồng Lĩnh số 217 tháng 9 trân trọng giới thiệu ghi chép “Tôi đã đi qua Kỳ Anh như thế nào?...” của Nguyễn Khắc Phê
Câu chuyện diễn ra từ hơn nửa thế kỷ trước - nói chính xác là 56 năm quãng thời gian dài bằng một đời người. Tôi nhớ lại “chuyện xưa” - dù không phải là “kỷ niệm chẵn năm” theo “phong tục hiện đại”, nhưng nói vui thì đây là một cách “ăn theo”; vì Kỳ Anh đang là một vùng đất được nhiều người hướng về… Riêng với tôi và nhiều bà con họ Nguyễn Khắc thì những ngày qua luôn nhắc đến Kỳ Anh vì ở vùng đất đang phát triển vượt bậc này, vừa có 2 con đường mang tên người thân trong gia đình…
Nhắc lại chuyện đi qua Kỳ Anh từ 56 năm trước để bạn đọc hôm nay hiểu thêm cuộc sống “ngày xưa” ra sao - những cảnh đời của lớp người gọi là “phó thường dân”, ít hiện diện trong các trang sử. Từ đó, càng yêu quý thêm đất nước đang không ngừng đổi thay - trong đó có Kỳ Anh đang dần trở thành một thành phố năng động phía Nam của Hà Tĩnh…
***
…Chuyến đi của tôi ngày ấy cũng gần như “độc hành”, vì giữa thời đoạn địch ném bom “hạn chế”, khúc ruột miền Trung càng bị đánh phá ác liệt hơn; “lang thang” dọc đường số 1 giữa ban ngày, có thể tử vong bất cứ lúc nào! Lúc đó, tôi đang là cán bộ Ty Giao thông Quảng Bình. Lãnh đạo Ty đồng ý cho tôi “đi tu” luyện nghề văn, nhưng “việc có đi hay không do đồng chí Nguyễn Khắc Phê quyết định”! Văn bản của cơ quan ghi như thế. Tôi hiểu điều ấy có ý nhắc tôi hãy suy nghĩ trước khi chọn con đường tương lai - vì ai biết được đi học viết văn rồi sẽ “thành cái gì, có lợi lộc gì không”; hơn nữa, đường từ Quảng Bình ra Hà Nội lúc đó, vượt qua biết bao “cửa tử”, nếu không may có “sự cố” thì đó là do đương sự tự nguyện. Rút cục, tôi quyết định đi dự khóa “tu luyện” 8 tháng. Đó là “Lớp bồi dưỡng viết văn trẻ khóa 3” mở tại Hà Tây do nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh làm “Hiệu trưởng”… Một chuyến đi cũng đáng gọi là “lịch sử”, bạn đọc trẻ hôm nay khó hình dung nổi…
Tôi lên… xe đạp ra đi ngày 1/10/1968, một ngày thật may mắn. Đạp xe từ Trại Cau (nơi sơ tán của Ty Giao thông, nay gọi là “Cộn” - cách Đồng Hới 7 km), ra đường số 1, đến sông Gianh 12 giờ trưa. Đạp xuống bến đò ngang, sau khi một chiếc máy bay trinh sát chỉ điểm cho tàu biển pháo kích, lượn quanh rất thấp vùng Ba Đồn và mép biển. Pháo 37 ly rồi 12,7 ly bắn rát nhưng không trúng. Để xuống bến đò, phải đi ven sông một đoạn, rồi phải rẽ quặt vào làng theo hình chữ C để tránh bom từ trường. Cảnh sông Gianh nghe qua tin tức thật dễ sợ (trước đó, một đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình hy sinh khi xe qua phà ban đêm trúng thủy lôi), nhưng trưa nay thật bình yên. Các em vẫn chăn trâu, chơi đùa bên rìa làng. Một số dân quân đang chuyển những hòm đạn 12,7 ly từ đê vào làng. Giữa sông, một dãy rớ (vó bắt cá tôm…) xếp hàng đều tăm tắp. Do vừa có lũ, bà con không đánh bắt cá, những cọng rớ giương cao lặng lẽ trên mặt sông mênh mông, nước đục ngầu chảy xiết. Khách chờ qua đò ngồi trong một túp lều tranh nhỏ trong đê. Một lát có hai khách đi xe đạp đến thêm. Nhận ra đó là hai bưu tá, nên người lái đò bảo: “Cho xe xuống thuyền đi!” Thủy thủ khoác áo phao vào người và cho thuyền rời bến. Được một quãng ngắn, bỗng thấy một ông gánh mây đang đi xuống. Thế là người lái cho thuyền trở lại bờ. Khách tỏ ý sốt ruột và lo lắng. Biết đâu, chính vào lúc đón thêm khách, phản lực Mỹ lại xộc đến ném bom. Tôi cũng định kêu lên: “Thôi thôi! Chờ làm gì!” Nhưng cảm thấy ngay đó là một ý nghĩ ích kỷ đáng xấu hổ, nên thôi. (Khách chỉ vượt qua sông Gianh trong vài chục phút, còn các thủy thủ ngày đêm qua lại trên dòng sông đầy thủy lôi, bom từ trường phục kích này thì sao? Về sau, một người lái đò và thủy thủ lái ca nô Võ Xuân Khuể ở bến phà Gianh đã được tuyên dương là Anh hùng.) Gánh mây lên đò, ông ta ngỏ lời cảm ơn các thủy thủ đã chờ cho ông được đi cùng chuyến. Không khí trên đò trở nên vui vẻ, khi các thủy thủ nhắc đến tình nghĩa giữa người đi kiếm cây mây và người chèo đò - những quai chèo đều làm bằng mây! Vậy là chiếc quai chèo đã đánh bạt uy lực của những cái “bẫy” giết người tinh vi của Mỹ phục kích dưới lòng sông cùng những chùm bom, đạn pháo từ hạm đội 7 có thể chụp xuống bất cứ lúc nào! Mặc cho dòng sông càng rộng mênh mông do nước lũ về, nhìn sang bờ Bắc chẳng thấy gì rõ. Bốn tay chèo như không có chi gấp gáp, đều nhịp theo giọng hò, nên cũng đỡ sốt ruột…
Đường về Kỳ Anh. Ảnh: PV
Đường ra Đèo Ngang có một đoạn bị đánh dữ - từ cầu Càng đến Mũi Vích, vì đây là điểm rẽ lên con đường 22 mới mở để tránh qua Đèo Ngang và những chiếc cầu bên Kỳ Anh đã bị bom Mỹ phá nát. Đoạn đường vẫn còn dấu vết những hố bom mới nổ, anh em công nhân đang hàn gắn. Phải vượt qua hai đò ngang mới đến chân Đèo Ngang. Định nghỉ lại một đơn vị giao thông ở chân đèo, nhưng qua đò, có bạn đồng hành xe đạp là một anh bộ đội, đội mũ tai bèo, cũng quyết vượt đèo ra Hà Tĩnh. Dọc đường, ngắm kỹ “chân dung” bạn đường: Sau lưng một ba lô nhỏ bằng vi-ni-lông chống mưa; thắt lưng có súng lục và một bi đông nước. Đằng sau xe là một ba lô con cóc gói trong ni-lông, bên ngoài dắt chiếc điều cày nhỏ, có đề dòng chữ “Mặt trận Đường 9”. Lại còn chiếc máy ảnh nữa. Mỗi khi nghỉ chân là rít thuốc lào và chụp ảnh thoải mái. Chắc là một cán bộ có cỡ, nên cũng không hỏi han gì nhiều, chỉ biết tên anh là Hưu.
Lên gần đỉnh Đèo Ngang, tôi mệt lử vì đường dốc và từ Trại Cau ra đây đã quá xa. Anh Hưu xem ra vẫn khỏe, do mới khởi hành từ Ba Đồn. Cứ một quãng ngắn, tôi lại hỏi: “Gần tới đỉnh chưa? Nếu chưa thì nghỉ lại thôi!” Anh Hưu đi trước, quay lại động viên: “Gần đến rồi!” Thân thể tôi đờ ra, nhiều lúc cảm thấy cái xe đi không phải nhờ sức mình đẩy, nhờ tay mình lái nữa; còn mồ hôi không phải chảy ròng ròng mà nhơm nhớp, có cảm tưởng như đó là chất tủy trong người tiết ra! Đến đỉnh đèo, định lấy chanh chấm đường ăn thì anh Hưu đưa cho túi sữa bột đã trộn sẵn với đường. Không có gì múc, lấy lá cây mua xúc ăn. Ăn vài miếng, lại tợp một ngụm nước. Một lát sau, hồi sức, lại đi xuống dốc.
Đường vắng ngắt, phần vì lâu nay không mấy ai đi dọc đoạn đường ven biển rất dễ lọt vô tầm ngắm của máy bay, tàu chiến Mỹ; phần nữa không ai liều vượt đèo về chiều. Chẳng còn tâm trí để ngắm cảnh đẹp lúc “nắng xế tà” từng thu hút bao thế hệ trong bài thơ để đời của Bà Huyện Thanh Quan. Xuống đến chân đèo, trời bỗng hửng nắng thật. Đạp chầm chậm để lấy sức vượt đèo Con. Đây là điểm luôn bị đánh phá; mới mấy phút trước, chúng vừa pháo kích vào, bên đường còn rõ những hố đạn mới, đất tung tóe mặt đường. Và vừa vượt qua đèo Con chốc lát, thì 2 chiếc F.105 lao xiết qua đầu. Dừng phắt xe lại, thấy chớp lóe, rồi tiếng rít, biết là chúng đã cắt bom. Quả nhiên, khói ùn lên ở chân đèo Con. Thật hú vía!
Không đến thị trấn Kỳ Anh được, phải nghỉ lại ở xã Kỳ Phương, cách Kỳ Anh 17 km. Anh Hưu bảo tìm vào nhà công an mà ngủ. Khi trình giấy, anh dặn: “Giả sử có tình hình xấu, không may tôi hy sinh, đề nghị các đồng chí niêm phong đồ đạc của tôi và gửi về đơn vị…” Một việc nhỏ, nhưng hiểu được bản chất của anh, không sợ cái chết của bản thân, chỉ nghĩ đến sự sống cho “tài liệu”. Dù đã mệt đừ, nhưng vẫn gắng đi theo người hàng xóm xin hái nắm lá khoai lang nấu canh. Bữa ăn nhờ thế thêm ngon. Đêm, trăng rất sáng. Gần rằm rồi. Mệt phờ râu nhưng vẫn lấy dao cạo râu dưới trăng! Nghe mình “tự ca” cái cảnh độc đáo này, mấy chú thiếu niên ngồi quanh cười rộ lên. Ngày thứ hai, chỉ đi theo đường số 1 đến thị trấn Kỳ Anh rồi rẽ vào đường giao liên để vượt qua Cẩm Xuyên, nơi có mấy chiếc cầu đã bị bom đánh nát. Hai anh em ghé một quán ăn trong làng rất nhiều cây xanh. Là cửa hàng mậu dịch quốc doanh, nên phải chờ đến hơn 9 giờ mới mở cửa. Khách đông dần, người đi bộ, kẻ xe đạp, rồi các lái xe ô tô hồi đêm chở các em K8 ở Vĩnh Linh ra, đang tạm trú quanh đây.
Hai anh em mua 4 suất cơm, gói lại hơn một suất. Đường giao liên rẽ về phía Tây, xa đường số 1, xa biển, không còn sợ pháo kích, nhưng vòng vèo, liên tục lên xuống dốc. Có một cái dốc gần như dựng đứng, vượt qua rồi mà không ngờ mình đã đi qua một con đường như thế! Cứ tưởng là đường an toàn trăm phần trăm, nhưng một lần nữa, hú vía. Hai chiếc máy bay cánh quạt AD6 thì phải, lượn lờ kiếm mục tiêu một lúc rồi sà xuống bắn tên lửa vào một lùm cây có khói bốc lên trên đỉnh núi sát đường đi. Dừng được xe, lần ra xa đường, tìm chỗ nấp thì chiếc thứ hai như là lao thẳng vào mặt mình, nhưng nó không bắn. Từ đó, nghe tiếng máy bay, lại nghển cổ nhìn, không còn đi thoải mái nữa.
Đến làng Kỳ Hương đã trưa, phải tiếp sức bằng quả chanh chấm đường và vắt cơm muối vừng rồi mới đi tiếp ra Cẩm Xuyên… Ra đến Cẩm Xuyên, đường qua làng đã dễ đi hơn, nhưng lúc qua một con sông nhỏ, không có đò, phải cởi hết, lội qua. Tối, nghỉ lại làng Cẩm Hưng, gần cầu Họ. Ở đây, gần đường số 1, máy bay dạo qua luôn, tiếng bom nổ rất gần và đạn pháo từ tàu biển bắn về phía cầu Họ rít veo veo trên đầu…
***
Đi qua đất Kỳ Anh, đã “dễ thở” hơn, như cũng phải mất 5 ngày nữa mới đến nơi “tu luyện” văn chương. Khi đạp xe qua một quán ăn ở Thạch Hà, tôi từ biệt anh Hưu để kết bạn với một anh đi ra Can Lộc. (Hôm nay, nhớ lại chuyện xưa, chợt nghĩ không biết anh Hưu còn hay mất? Cũng lạ, không nhớ có hỏi địa chỉ, quê quán của anh không và có “tự khai” gì về mình với anh không?... Ôi! Biết bao nhiêu là bạn “tình cờ” trên những con đường chiến tranh!)
Từ Can Lộc, tôi về Đức Thọ, ghé thăm quê ở Hương Sơn rồi băng qua Truông Mèn ra Nghệ An. Đến Hoàng Mai thì bắt đầu bám tàu hỏa đi từng chặng vi nhiều cầu bị sập… Mãi đến ngày 9/10/1968, tôi mới đến Ga Hà Nội. Lớp học đã khai giảng cả tuần trước, có gần 40 học viên. Về sau nhiều người đã trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, “oai” hơn cả là Nguyễn Trí Huân, từng giữ chức Tổng biên tập Tạp chí “Văn nghệ quân đội”, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam…
Hơn nửa thế kỷ đã qua từ chuyến đi “tu… luyện” văn chương, dù đã in gần ba chục đầu sách, vẫn chẳng dám cho mình đã đi đến đích! Dù vậy, tôi nhớ văn hào Lỗ Tấn có câu: “Người ta đi mãi thì thành đường”. Ôi! Đường đời muôn nẻo! Cầu mong mọi người, ai cũng tỉnh táo nhận ra đâu là đường “chính”, đâu là đường “tà” để mà đi theo…
Riêng với Kỳ Anh, con đường bị bom đạn băm nát hoàng vắng mà tôi đi qua 56 năm trước, nay đã thành đại lộ. Thị trấn Kỳ Anh buồn tẻ năm xưa, nay đã thành một thị xã phát triển vượt bậc, có cả hồ điều hòa công viên Thủy Sơn giữa trung tâm phố phường. Những con đường mới đã và đang được mở ra mang tên nhiều nhân vật lịch sử và chiến sĩ cách mạng; một số nhà văn hóa, nhà thơ như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Đổng Chi, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính…, cả hai vị Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn và Nguyễn Khắc Niêm cùng quê Hương Sơn, cũng đã có tên đường… Tôi đã hẹn với các bạn trẻ mới quen ở Kỳ Anh sẽ ra thăm những con đường vừa mở ra các vùng quanh trung tâm thị xã. Bây giờ không còn sợ đạn bom, chỉ sợ… đi lạc. “Chục năm qua, Kỳ Anh phát triển ghê lắm! Bác không tưởng tượng được đâu!” Một bạn vừa đi Kỳ Anh về, đã nói với tôi như vậy… Và tôi cũng biết, từ Kỳ Anh còn có con đường vươn xa hơn là Quốc lộ 12A chạy suốt từ đèo Mụ Giạ - điểm hết nối với Lào và Thái Lan - xuống tới tận cảng Vũng Áng. Hơn thế, nghe đâu dự án đường sắt từ Lào vượt Trường Sơn ra cửa biển dựa theo hướng tuyến 12A đã được đặt lên bàn “nghị sự” các bên liên quan!
Con đường bị bom đạn chặt ra từng khúc, bị băm nát, nay chỉ còn trong ký ức; con đường tu luyện gian lao và những con đường mở ra chân trời mới…. Cuộc sống phong phú vậy đó, bạn ơi!...
N.K.P