NGUYỄN ĐỨC HUY (1862 - 1908)
VỊ TIẾN SĨ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẤT NGU XÁ XƯA
TS. Nguyễn Tùng Lĩnh
Nguyễn Đức Huy (1862 - 1908) là người khai khoa, đỗ Tiến sĩ đầu tiên của vùng đất Ngu Xá xưa, nay là xã Thạch Hội, thuộc thành phố Hà Tĩnh.
Nguyễn Đức Huy xuất thân trong một gia đình bần nông ở xã Ngu Xá, huyện Thạch Hà, nay là xã Thạch Hội, thành phố Hà Tĩnh. Ngay từ nhỏ ông đã bộc lộ trí thông minh, ham học hơn người. Thấy con hay chữ nên cha mẹ đã đem gửi ông đến học ở nhà một thầy đồ ở huyện Can Lộc. Người mẹ thương con, khăn gói đi theo, làm thuê làm mướn nuôi con ăn học. Hàng ngày ngoài giờ học ông thường cùng mẹ lên rừng đốn củi, đốt than, lấy củ nu về bán cho phường nhuộm, đêm về tranh thủ ôn bài vở, không có đèn dầu để thắp thì bắt đom đóm làm ánh sáng. Năm 22 tuổi, Nguyễn Đức Huy thi đỗ Tú tài, kể từ đó dân làng thường gọi ông là ông Tú Nu.
Sau khi đỗ Tú tài, Nguyễn Đức Huy về lại quê làng Ngu Xá, vừa làm vừa học. Trong quá trình dùi mài kinh sử, ông được bạn bè giúp đỡ, tìm cho công việc làm thêm tại nhà ông Nguyễn Tiến Thộ, một gia đình giàu có ở huyện Kỳ Anh lúc bấy giờ. Mến tài học và đức độ của chàng trai nghèo, ông Thộ đã gả con gái thứ là bà Nguyễn Thị Vân cho ông.
Nhà thờ Nguyễn Đức Huy, xã Thạch Hội, Thành phố Hà Tĩnh
Khoa thi Hương năm Tân Mão (1891), ông đỗ Cử nhân. Khoa thi này, tại trường thi Nghệ An có tổng cộng 20 người thi đỗ, trong đó Hà Tĩnh có ba người là Trần Vinh (Hương Sơn), Phạm Văn Lãng (Đức Thọ) và Nguyễn Đức Huy ở Thạch Hà. Đến kì thi Hội năm Ất Mùi (1895), ông tiếp tục thi đỗ, được vào thi Đình, ông đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Trong buổi tiệc mừng, một người bạn đã tặng ông câu đối:
“Nhất cử thành danh thiên hạ hữu
Tam khoa liên trúng thế gian vô”.
Sau khi thi đỗ Tiến sĩ, ông được cử giữ chức tri phủ Triệu Phong (tỉnh Quảng Trị), hàm Tòng tứ phẩm. Trong thời gian làm quan tại đây, ông đã tỏ rõ là một vị quan có tài năng, được triều đình ghi nhận.
Sách Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên ghi chép: năm 1898, ở Quảng Bình “gạo đắt, cái ăn khó khăn, nhân dân nhiều người họp bọn làm cướp”. Triều đình cử Văn Minh điện đại học sĩ Nguyễn Thân tới trù hoạch cứu giúp. Cùng với sự giúp sức của quan lại địa phương trong đó có Tri phủ Triệu Phong Nguyễn Đức Huy, tình hình được cải thiện, “đến cuối tháng ấy tình hình hơi yên, chuẩn cho quan tỉnh bàn bạc chẩn cấp.” Sau sự việc này, Nguyễn Đức Huy đã được khen ngợi: “Lại làm rõ việc thưởng phạt các phủ huyện (Tri phủ Triệu Phong Nguyễn Đức Huy khuyến quyên đắc lực xin thưởng hai cấp trác dị1, Tri huyện Vĩnh Linh Trần Đức Tuy làm việc tầm thường xin triệt hồi,...”2 .
Trong thời gian làm quan, Nguyễn Đức Huy đã nhìn thấu nỗi khổ người dân bị áp bức, lao dịch, sưu cao thuế nặng. Ông thương cảm và đứng về phía nhân dân, nhiều lần ngầm chống lại lệnh trên để bảo vệ dân nên trở thành cái gai trong mắt quan Pháp.
Năm Thành Thái 13 (1901), ở huyện Dương Hợp, tỉnh Quảng Trị có người bị tội, Nguyễn Đức Huy tra xét kết án, giảm tội chết cho phạm nhân. Tuy nhiên, sau phạm nhân này lại chết trên đường đi đày. Ông bị tố giác lên trên, vua giao Cơ Mật viện và Đô sát viện phúc tra, rồi đem kết quả tra được cho Tòa Khâm sứ kết án. Ông phải chịu phạt 100 trượng và đày 3.000 dặm, sau được phóng thích.
Để làm rõ thêm về ngọn nguồn “bị tội” của Nguyễn Đức Huy, chúng tôi đã vào Huế tìm hiểu và thấy Nguyễn Đức Huy vẫn có tên trên Văn bia tại Văn miếu Huế (trước đây những người bị tội sẽ bị đục tên trên Văn bia). Gia phả dòng họ Nguyễn Đức ở xã Thạch Hội cũng ghi rõ Nguyễn Đức Huy chỉ vì liên đới trách nhiệm (để phạm nhân bị chết) nên Tri phủ bị tội. Tư liệu của dòng họ cho biết thêm: Cụ Nguyễn Đức Huy vì thương dân, chống Pháp, nên khi có phạm nhân bị chết trong nhà lao của phủ, chính quyền thực dân đã tìm cách đổ tội cho ông.
Văn bia tại Văn miếu Huế (có khắc tên Nguyễn Đức Huy)
Sự kiện này, sách Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên cũng chép: “Tri phủ Triệu Phong Nguyễn Đức Huy có tội bị cách chức bắt giam. Lúc bấy giờ Chưởng ấn Đô sát viện Trần Trạm, Ngự sử Nguyễn Xuân Toản phúc duyệt vụ án nhân mạng ở Dương Hợp tỉnh Quảng Trị, có trở ngại bèn trích tâu lên (đại lược nói căn cứ theo lời khai thì Bùi Huệ là người đứng đầu tố cáo phủ viên, phủ viên Nguyễn Đức Huy đã có tội không hồi tỵ, tự ý tra xét kết án, huống hồ đày đi làm chết một người, can vào tội nặng...). Đến khi án thành, Đức Huy bị tội (đánh 100 trượng, đày 3.000 dặm)... (về sau nhân tiết Thánh chung, Tòa Khâm sứ bàn nghĩ chờ ân chuẩn phóng thích)3”.
Sau khi được ân chuẩn phóng thích, Nguyễn Đức Huy trở về sinh sống tại quê vợ ở xã Tuần Tượng, nay là xã Kỳ Phong, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Ông “đã sống một cuộc đời thanh bạch, giáo dục con cái nên người. Trước khi mất, ông có dặn con cháu: mộ ông phải “ngụy táng” vì sợ bị thực dân Pháp trả thù”4.
Ông Nguyễn Đức Huy có một người con trai tên Nguyễn Đức Mỹ, là thành viên tham gia cuộc họp ngày 4-5/6/1930 thành lập Đảng bộ huyện Kỳ Anh, là một trong bảy Ủy viên Ban Chấp hành đầu tiên của Đảng bộ huyện Kỳ Anh. Nguyễn Đức Mỹ sau bị bắt giam và hy sinh trong Nhà lao Vinh vào cuối năm 1930, được truy tặng Liệt sĩ, được khắc bia và cùng phối thờ tại đền Phương Giai. Bà Nguyễn Thị Nhoan (vợ kế ông Nguyễn Đức Huy) được truy tặng bà mẹ Việt Nam Anh hùng năm 2015. Ngoài ra, ông Nguyễn Đức Huy còn có một người con trai là Nguyễn Đức Trạch, còn gọi là cậu Cả Trạch - một nghệ nhân Dân ca Ví Giặm, Ca trù nổi tiếng trước đây, là bạn hát tương đắc với O Nhẫn ở Kỳ Xuân, Kỳ Anh. Nguyễn Đức Trạch có tên trong Địa chí huyện Kỳ Anh.
Ghi nhận những công lao đóng góp của Tiến sĩ Nguyễn Đức Huy, ngày 15/4/2024, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh có Quyết định số 1985/QĐ-UBND xếp hạng Nhà thờ Nguyễn Đức Huy là di tích Lịch sử cấp tỉnh. Tiến sĩ Nguyễn Đức Huy cũng đã được khắc tên trên văn bia tại Văn miếu Hà Tĩnh.
Có thể nói rằng, với Tiến sĩ Nguyễn Đức Huy, dù cuộc đời có nhiều thăng trầm, biến cố nhưng ở ông vẫn toát lên nhân cách cao đẹp của một nhà nho, học hành tài giỏi, luôn đứng về phía nhân dân, là tấm gương sáng để hậu thế noi theo.
NTL
___________
1.Trác dị: Trác (cao xa), dị (khác thường): Cao xa khác thường.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên Đệ lục kỷ phụ biên, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, 2012, tr 318.
3. Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên, Nxb Văn hóa - văn nghệ, tr.393.
4. Nguyễn Tùng Lĩnh, Văn miếu, Văn thánh Hà Tĩnh, Nxb Đại học Vinh, 2004, tr.12.