Năm học 2024 - 2025, trong kì thi hết bậc THCS cũng như tốt nghiệp THPT, đề thi môn Ngữ văn sẽ không dùng ngữ liệu trong các bộ sách giáo khoa. Điều này vừa là một thử thách không nhỏ đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy và học sinh, đồng thời cũng tạo nên niềm hứng thú của sự khám phá những tác phẩm mới mẻ trong kho tàng văn học vô cùng phong phú. Tạp chí Hồng Lĩnh số 217 xin đăng bài cảm nhận phân tích một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, hi vọng giáo viên và học sinh có thể tham khảo để làm giàu thêm kiến thức về thơ cũng như kĩ năng xử lí một văn bản mới.
Thiêng hóa cuộc sống qua bài thơ Lễ tạ của Nguyễn Quang Thiều
ĐẶNG LƯU
Con đường
Con đường
Con đường
Dắt ta về hồ nước cũ
Phảng phất một lá sen già
Đợi ta trên miền nước lặng
Hỡi người hái hoa kiếp trước
Kiếp này có hoá bình không?
Phải đào ba tấc đất sâu
Mới tìm được người hầu rượu
Phải lên đến bảy tầng trời
Mới gặp được người thưa chuyện
Ngẩng mặt một vầng mây đỏ
Nổ vang tiếng sấm của trời
Cúi đầu một miền cỏ trắng
Nở xoè bên cõi sen tươi
Ra đi từ hồ nước cũ
Con đường
Con đường
Con đường
Lướt qua bài thơ, tri giác của người đọc dễ bị hút ngay vào cái cấu trúc hoàn hồi (vòng tròn) của nó. Khổ thơ đầu và cuối đều là kiểu khổ thơ đặc biệt. Khổ đầu nói về sự TRỞ VỀ; khổ cuối nói về sự RA ĐI. Trở về với HỒ NƯỚC CŨ và cũng từ HỒ NƯỚC CŨ ấy ra đi. Thêm nữa, những dòng thơ đầu tiên được lặp lại nguyên xi ở các dòng cuối cùng. Ba khổ thơ giữa cho biết các sự kiện xảy ra và diễn biến tâm trạng của chủ thể trữ tình trong lần trở về này. Tất cả góp phần tạo nên ấn tượng về sự đăng đối, hài hòa.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Ảnh Internet
Trước hết, không thể không chú ý đến nhan đề bài thơ. Lễ tạ là cụm từ gợi nhắc một nghi thức tôn giáo. Bên cạnh ngày lễ Tạ ơn của Thiên Chúa giáo, dường như mọi nghi lễ thuộc các tôn giáo khác đều ít nhiều có màu sắc tạ ơn, thể hiện sự tri ân đối với các đấng thiêng liêng vì đã ban cho con người mọi điều tốt lành. Rộng ra, đó còn là lòng biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ – những người đã khuất. Như vậy, nhan đề bài thơ đã dẫn dụ người đọc vào một thế giới thiêng liêng, thế giới tâm linh. Chỉ với tâm thế này, người đọc mới có thể khám phá bài thơ một cách thấu đáo.
Được viết bằng thể 6 chữ, ngôn từ bài thơ nhịp nhàng, êm nhẹ, gây cảm giác bình lặng, thanh an, làm nên cái giọng điệu suy ngẫm, chiêm nghiệm rất riêng.
Đại từ nhân xưng ta xuất hiện chỉ một lần trong bài thơ, biểu thị chủ thể trữ tình. Cũng là đại từ ngôi thứ nhất, nhưng đây không phải cái tôi đơn lẻ, mà là cái ta phổ quát. Nhờ đó, mọi cá thể dường như đều có thể soi thấy tâm trạng của mình trong những cung bậc cảm xúc mà bài thơ diễn tả.
Nhìn lại, chính cái cấu trúc theo mô hình: TRỞ VỀ → TRẢI NGHIỆM CÁC BIẾN CỐ → RA ĐI khiến ta nghĩ đến một cuộc hành hương. Về ngữ nghĩa, hành hương là một hành động, một nghi thức tôn giáo hoặc tâm linh, ở đó, người ta thường đi đến một vùng đất linh thiêng để tỏ lòng kính ngưỡng hoặc để cầu nguyện. Chẳng hạn, người theo Phật giáo có thể tới một địa điểm ở Ấn Độ – nơi có cây bồ đề mà đức Phật đã tọa thiền và giác ngộ; hằng năm, tín đồ Hồi giáo thường hành hương về thành địa Mếc-ca ở A-rập Xê-út – nơi có đền thờ Kaa-ba được xem là thiêng liêng nhất của đạo Hồi; người theo Ki-tô giáo thì có thể trở về với Jerusalem – nơi Chúa Giê-su được sinh ra, đi rao giảng, chịu đóng đinh trên thập tự và phục sinh,… Với tín đồ thuộc bất cứ tôn giáo nào, một lần hành hương là một lần như được thanh tẩy, được rửa sạch bụi nhơ tâm hồn. Từ chốn hành hương cất bước ra đi, tâm hồn trở nên trong trẻo, thanh sạch.
Như vậy, bài thơ đã mượn mô thức hành hương của tôn giáo để nói về một cuộc “hành hương” đặc biệt của chủ thể trữ tình. Cuộc “hành hương” này không phải đi đến địa danh nổi tiếng, gắn với bất cứ tôn giáo nào, mà là một chuyến đi riêng, về với “vùng đất thiêng”, “miền đất hứa” của tâm hồn mình. Vùng đất thiêng, miền đất hứa ấy có thể là nơi chôn rau cắt rốn; nơi chập chững những bước đi đầu tiên; nơi ghi dấu kí ức tuổi thơ trong sáng, êm đềm; nơi có những rung động đầu đời của một mối tình,… Theo cách hiểu đó, trên đời này, mỗi người đều có riêng vùng “đất thiêng”, “đất hứa” và do vậy, trong đời, ai cũng có những cuộc “hành hương” của mình. Vậy, cảm xúc chủ đạo của bài thơ là cảm xúc thiêng hóa cuộc sống, ở đó, mọi sự việc, mọi biến cố dung dị của đời thường cũng trở nên hết sức thiêng liêng.
Ta hãy dõi theo bước chân “hành hương” của chủ thể trữ tình trong bài thơ.
Hành động trở về được diễn tả trong khổ thơ đầu:
Con đường
Con đường
Con đường
Dắt ta về hồ nước cũ
Ta từ đâu về? Bài thơ không nói cụ thể. Chỉ biết ta về nhờ sự dẫn dắt của những con đường. Nếu theo cấu trúc thông thường, sáu tiếng có thể tồn tại trong một dòng thơ (Con đường, con đường, con đường), ở đó, các tiếng được lặp lại theo kiểu tu từ điệp ngữ. Nhưng tác giả đã chọn hình thức khác: câu thơ sáu tiếng được ngắt thành ba dòng, mỗi dòng chỉ có hai chữ con đường. Các dòng thơ tuy lặp lại nguyên xi về từ ngữ, nhưng có sự biến hóa về cách trình bày (trên trang in, dòng sau lùi vào một quãng so với dòng trước đó) theo dạng thơ bậc thang, có màu sắc của thơ thị giác. Cách trình bày này có thể gây ấn tượng về sự gập ghềnh, trắc trở; cũng có thể tạo cảm giác là trở về từ vô số con đường. Rốt cuộc, đó cũng chính là cách diễn tả về đường đời của ta. Về đây, ta đã bỏ lại phía sau trăm lối, ngàn nẻo; với bao nhiêu cảnh huống đã trải nghiệm: có vui có buồn; có rủi có may; có hạnh phúc, bất hạnh; có thất bại, thành công,… Trên hành trình đó, hồn ta không khỏi từng nhuốm bụi nhơ, cần được gột rửa.
Con đường trong những dòng thơ mở đầu và những dòng thơ kết bài rõ ràng là yếu tố mang tính biểu tượng. Tuy nhiên, không chỉ con đường mà dường như mọi hình ảnh có mặt trong bài thơ đều là những biểu tượng. Chúng xuất hiện như một tất yếu, là sản phẩm nhất quán một kiểu tư duy thơ. Đúng vậy, hồ nước cũ, miền nước lặng, lá sen già, người hái hoa kiếp trước, bình hoa, người hầu rượu, ngưởi thưa chuyện, vầng mây đỏ, tiếng sấm của trời, miền cỏ trắng, cõi sen tươi,… thảy đều mang đầy đủ tính chất biểu tượng của nghệ thuật ngôn từ. Đó là hệ thống biểu tượng đậm màu sắc Phật giáo. Các biểu tượng này hàm nghĩa phong phú, khó có thể xác quyết nghĩa nào là duy nhất đúng. Mỗi hình ảnh là một thành tố, tất cả cùng hợp thành một hệ thống chặt chẽ, sống động trong “dung môi cảm xúc” của chủ thể trữ tình. Mọi kiến giải chỉ thực sự có sở cứ khi người đọc dựa vào sự tương tác tạo nghĩa của các thành tố trong hệ thống. Xét tương quan của một số hình ảnh, ta sẽ thấy rõ điều đó.
Như nói trên, trở về từ những con đường, hồn người hẳn đã nhuốm bụi hồng. Đó là những tham, sân, si mà cõi nhân sinh mấy ai không vướng. Vì vậy, hồ nước xuất hiện như một tất yếu. Hồ nước cũ, miền nước lặng không chỉ là cõi thanh an, mà còn là biểu tượng của khả năng gột rửa, thanh tẩy. Trong hồ nước cũ ấy có lá sen già bền lòng chờ đợi ta về; và như một phép mầu, từ lá sen già, thoắt cái nở xòe một cõi sen tươi. Cõi sen tươi kì diệu ấy hoàn toàn tương thích với một miền cỏ trắng – cũng là dấu hiệu của một phép mầu. Chỉ khi tâm hồn thanh sạch, ta mới xứng đáng được khải thị những phép mầu như thế.
Một số câu thơ trong bài không hề dễ hiểu, và dĩ nhiên có thể cảm nhận, diễn dịch bằng nhiều cách khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Đây là thuộc tính của thơ, nhất là loại thơ giàu tính biểu tượng. Tuy nhiên, nếu đặt trong mạch cảm xúc thiêng hóa cuộc sống cũng như qua cảm quan Phật giáo, có khi ta sẽ chạm đến được nghĩa lý đích thực của chúng.
Về với hồ nước cũ, nơi có lá sen già chờ đợi, đột nhiên một câu hỏi bật ra:
Hỡi người hái hoa kiếp trước
Kiếp này có hóa bình không
Không khó để nhận ra tín niệm luân hồi của Phật giáo được nhắc đến ở đây. Nhưng vẻ đẹp của thơ chưa phải ở triết lý ấy, mà là ở tương quan giữa người hái hoa (kiếp trước) và người có thể hóa bình (kiếp này). Có lẽ chỉ trong thơ mới có sự luân hồi kì lạ như vậy. Theo quan niệm của Phật giáo, luân hồi là sự chuyển kiếp của những sinh vật, không có chỗ cho đồ vật vô tri. Vậy thì sự hóa thân thành bình hoa của một người kiếp trước đã hái hoa chỉ là một kiểu “luân hồi” đầy màu sắc duy mỹ, đậm tính lãng mạn. Kiếp trước đã tận hưởng cái đẹp (hái hoa) thì kiếp này muốn được tôn vinh cái đẹp (hóa bình để cắm hoa). Câu thơ có dạng thức của câu hỏi tu từ. Hỏi người hay hỏi chính mình đây? Không dễ xác quyết điều này.
Cái ước ao của người nghệ sĩ duy mỹ ấy chỉ là nỗi niềm trong sâu thẳm tâm hồn, không thể giãi bày, không thể sẻ chia. Vậy nên:
Phải đào ba tấc đất sâu
Mới tìm được người hầu rượu
Phải lên đến bảy tầng trời
Mới gặp được người thưa chuyện
Về với vùng đất thiêng, miền đất hứa mà rơi vào cảnh ngộ “vô tri âm”, “cô cố nhân” (chữ của Nguyễn Tuân) vậy sao? Ta hoàn toàn đơn lẻ, cô độc, chỉ tự đối diện với chính mình. Ba tấc đất, bảy tầng trời là những cách diễn đạt về tiền kiếp (cũng như người hái hoa kiếp trước đã nói trên). Như vậy, hành hương ở đây là trở về với thế giới riêng tư, biệt lập, tuyệt nhiên không có mối liên hệ với tha nhân. Những hình ảnh ngoại quan dường như không còn ý nghĩa. Sự giao tiếp chỉ diễn ra ở chiều sâu tâm linh. Ấy là cảnh giới thiền định – cái cảnh giới không phải ai cũng may mắn có được một lần trong đời.
Đạt đến trạng thái tĩnh tuyệt đối như thế mới có thể được khải thị những điềm lạ từ thế giới “trên kia”:
Ngẩng mặt một vầng mây đỏ
Nổ vang tiếng sấm của trời
Cúi đầu một miền cỏ trắng
Nở xoè bên cõi sen tươi
Vầng mây đỏ hay hào quang của đấng siêu nhiên? Tiếng sấm của trời hay sự hồi đáp của quyền năng vô biên trước thành tâm thành ý của con người cõi thế? Các tín hiệu nghệ thuật đó gợi nhớ đến những câu chuyện về sự hiển linh ở kinh sách các tôn giáo. Trong tương quan với các biểu tượng vừa nêu, miền cỏ trắng và cõi sen tươi cũng là những điềm lạ, điềm lành, báo hiệu mối tương liên nhiệm mầu giữa con người và đấng cao xanh.
Mặc dù gợi đến việc hành hương, cũng như sử dụng nhiều biểu tượng liên quan đến Phật giáo, nhưng không thể nói Lễ tạ là bài thơ viết về đề tài tôn giáo. Đó chẳng qua là kiểu tư duy thơ của Nguyễn Quang Thiều – một thứ thơ luôn thấm đẫm cảm xúc thiêng hóa đời sống. Trong con mắt của nhà thơ, cuộc sống dù phồn tạp nhưng vẫn luôn bí ẩn, thiêng liêng, rất đáng ngưỡng vọng. Có dịp xem một số bức tranh của Nguyễn Quang Thiều, tôi thấy ông sử dụng rất nhiều hình ảnh, biểu tượng thị giác liên quan đến tôn giáo. Điều này càng giúp tôi xác tín một điều: thiêng hóa cuộc sống vốn là nhãn quan nghệ thuật nhất quán, thể hiện trong hầu hết tác phẩm thuộc các loại hình nghệ thuật mà người nghệ sĩ đa tài, đa năng này đã sáng tạo nên.
18/8/2024
Đặng Lưu