15-11-2025 - 03:50

Quận công họ Nguyễn Tiên Điền

Kỷ niệm 260 năm Năm sinh đại thi hào Nguyễn Du (1765 – 2025), Tạp chí Hồng Lĩnh số 230 trân trọng giới thiệu bài viết “Quận công họ Nguyễn Tiên Điền” của tác giả Nguyễn Tùng Lĩnh

Quận công là một tước vị nằm trong hệ thống quan chế dưới thời quân chủ, do nhà vua ban cho những người có công đối với triều đình, với đất nước. Đây là một tước vị cao quý, chỉ đứng sau quốc công, thường thì chỉ những thân thần, công thần mới được ban tước vị này.

Tại Hà Tĩnh, có khá nhiều dòng họ đã nổi tiếng từ thời phong kiến bởi có nhiều người được phong Quận công như họ Ngô Trảo Nha (xã Can Lộc), họ Võ Tá Hà Hoàng (phường Trần Phú), họ Nguyễn Phi (xã Thạch Hà), họ Trần Hậu (phường Thành Sen), họ Dương (xã Thạch Khê)… Trong đó, riêng họ Nguyễn Tiên Điền có bốn người được phong Quận công là Phù Quận công Nguyễn Thể (1644 - 1698); Nhuận Quận công Nguyễn Quỳnh (1675 - 1735); Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) và Toản Quận công Nguyễn Khản (1734 - 1786).

Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du. Ảnh: Đậu Hà

Về Phù Quận công Nguyễn Thể, ông tên thụy là Bảo Lộc, là đời thứ tư của dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền. Từ nhỏ ông đã học võ nghệ, bắn cung, cưỡi ngựa thuần thục, tài sức hơn người. Ông vào lính rất sớm, chinh chiến chừng ba mươi năm, lập nhiều công lớn, từng được phong Quả cảm tướng quân, vệ Hổ bôn, Phó Võ úy, tước Phù hưng bá…

Năm Bính Dần (1746), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7, vì có người cháu là Nghị Hiên công làm quan lớn trong triều nên ông được phong Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Đông các Đại học sĩ, tước Phù Hưng hầu. Năm Canh Thìn (1760), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 21, ông được gia tặng Thượng thư Bộ Hộ, tước Thiếu phó Phù Quận công. Nguyễn Thể là người đầu tiên của họ Nguyễn Tiên Điền được phong tước Quận công.

Nhuận Quận công Nguyễn Quỳnh, tự Phụ Dực, hiệu Lĩnh Nam tiên sinh. Nguyễn Quỳnh có thiên hướng sách vở, văn chương từ nhỏ, thích đọc sách thánh hiền, tài văn chương nổi tiếng. Năm 19 tuổi, ông đi thi Hương, đậu Tam trường, được làm Nho sinh ở cục Tú lâm, thường được vào hầu ở cung Tiềm để của thái tử. Đến năm Mậu Dần 1698, vì có tang cha nên ông phải về quê lo việc hiếu sự. Để chăm lo chu toàn cho gia tộc, ông đành từ bỏ con đường khoa cử, chuyên tâm dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân trong vùng và dành phần lớn thời gian để dạy dỗ con cháu. Năm Ất Dậu (1705) Trung Quận công Lê Thì Liêu làm trấn tướng Nghệ An, nghe danh tài đức của Nguyễn Quỳnh nên mời ông đến làm mặc khách trong trướng, tham mưu việc quân cơ và ngoại giao, chuyên việc giao thiệp với Đàng Trong, giữ chức Chánh đội trưởng coi đội quân Thắng hữu. Là người tài giỏi lại luôn vui vẻ, khôi hài nên được Trung Quận công coi như bạn tâm giao và phân phó nhiều việc quân cơ quan trọng, vỗ yên dân chúng.

Năm Bính Ngọ 1726, mẹ mất, ông về quê lo tang sự và từ đó không ra làm quan nữa, ở hẳn nhà viết sách và dạy học. Ông dành nhiều thời gian để nghiên cứu các sách thiên văn, địa lý, lịch số, y dược..., dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Ông mất ngày 28 tháng 5 Ất Mão 1735, thọ 61 tuổi.

Năm Nhâm Tuất (1742), vì có con trai là Nghị hiên công làm quan lớn nên ông được phong tặng Hoằng tín đại phu Đại lý tự khanh. Năm Bính Dần (1746), tiếp tục được phong Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Hàn lâm viện Thừa chỉ, Nhuận trạch hầu. Năm Canh Thìn (1760) được tặng Thượng thư Bộ Lễ, Thái bảo Nhuận Quận công.

Nguyễn Quỳnh là người có ảnh hưởng quan trọng sự nghiệp của con cháu về sau. Bắt đầu từ ông, họ Nguyễn Tiên Điền không những có con cháu ngày càng đông đúc mà có sự phát triển vượt bậc về khoa cử và hoạn lộ. Là người tinh thông lý số, Nguyễn Quỳnh biết sau này con cháu của mình sẽ có nhiều người đậu đạt thành danh nên đã trồng 3 cây Muỗm (cây Xoài), cây Bồ Lỗ (cây Nóng) và cây Rói để tượng trưng cho sự trường tồn và vinh hiển của gia tộc. Quả như tiên đoán, không lâu sau đó, con trai cả Nguyễn Huệ đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, con thứ hai Nguyễn Nghiễm đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, con thứ ba Nguyễn Trọng đỗ Cử nhân (tước Lam Khê hầu), con thứ năm Nguyễn Sĩ đỗ sinh đồ (tước Đông Lĩnh hầu).

Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, tự Hy Tự, hiệu Nghị Hiên, biệt hiệu Hồng Ngự cư sĩ, thuộc đời thứ 6 của dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Năm lên 8 tuổi, Nguyễn Nghiễm đã biết làm văn, 13 tuổi thi đỗ đầu huyện, 16 tuổi thi đỗ đầu tỉnh, đến kỳ thi Hương đỗ Tứ trường, năm 17 tuổi thi ở Quốc Tử Giám đứng đầu bảng. Năm 1731 thi Hội trúng cách, tháng Chạp năm đó vào thi Đình, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).

Nguyễn Nghiễm có một sự nghiệp lẫy lừng với những đóng góp quan trọng cho triều đình cả văn ban và võ ban.

Sau khi thi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Nghiễm được bổ làm Hàn lâm viện Hiệu lý. Khoảng năm 1738 - 1739, được giao giữ chức Tham nhung hiệp đồng tán lý. Năm 1741, làm Tham chính xứ Sơn Nam. Giữ chức Tham chính một thời gian, ông được điều về Kinh giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm 1743, được chuyển sang chức Hàn lâm Thừa chỉ, tước Xuân Lĩnh bá. Năm 1746, thăng Hữu Thị lang Bộ Công, tước Xuân Lĩnh hầu, đặc cách thăng chức Bồi tụng.

Năm 1748, giữ chức Nghệ An tuyên phủ đại sứ kiêm Tán lý. Sau khi công việc ở đây ổn định, ông được điều về Kinh, thăng chức Tả Thị lang Bộ Hình. Tiếp đó được cử làm Hiệp trấn xứ Thanh Hoa. Năm 1750, Nguyễn Nghiễm giữ chức Thiêm đô Ngự sử; năm 1757 giữ chức Tả Thị lang Bộ Hình; năm 1759, Tả Thị lang Bộ Lễ; năm 1761 thăng Đô Ngự sử, kiêm Đốc trấn Thanh Hoa, Thượng thư Bộ Công. Năm 1767, “được vinh phong Thiếu phó, tước Xuân Quận công, gia hàm Đại tư không. Năm 1770, vinh phong Thái tể; năm 1771 về trí sĩ được vinh phong Đại tư đồ. Ông về quê được 3 tháng lại có chiếu khởi phục, triệu về Kinh giao chức Thượng thư Bộ Hộ. Sau khi mất, được vua Lê Hiển Tông ban tên thụy Trung Cần”1.

Hiện nay, tại Văn miếu Thăng Long còn có một quả chuông lớn đúc năm 1768, trên chuông có khắc bài Minh, trong đó có đoạn thể hiện hành trạng Nguyễn Nghiễm: “Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu Nhập thị Tham tụng Thái tử Thái bảo, Công bộ Thượng thư, hành Lễ bộ sự Tri Quốc Tử Giám, kiêm tri Trung thư giám Nhập thị Kinh diên, kiêm Quốc sử Tổng tài Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm”.

Nguyễn Nghiễm để lại các tác phẩm: Cổ lễ nhạc chương văn thi tập, Việt sử bị lãm, Quân trung liên vịnh, Lạng Sơn toàn thành đồ chí, Xuân đinh tạp vịnh

Toản Quận công Nguyễn Khản là con trai đầu của Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm. Năm Canh Thìn (1760), niên hiệu Cảnh Hưng 21, Nguyễn Khản đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.

Sau khi thi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Khản được bổ chức Hàn lâm viện Học sĩ, sau thăng Đại học sĩ. Cuối năm 1769, được chúa Trịnh Sâm đưa làm Tả tư giảng để giảng dạy cho Thế tử Trịnh Khải (tức Trịnh Tông). Sau đó, ông lại được thăng Hữu thị lang bộ Lại, Nhập thị Bồi tụng, tước Kiều Nhạc hầu, là một chức vụ trọng yếu trong phủ Chúa. Từ năm 1778, ông đổi sang hàng võ quan, lĩnh chức Đô đốc, tước Hồng Lĩnh hầu. Sau lại được thăng chức Tham tụng kiêm trấn thủ Sơn Tây - Hưng Hóa. Năm Canh Tý (1780), ông liên quan đến vụ án phế lập thế tử nên bị giam vào ngục, sau đó được tha và giáng xuống chức Đình úy. Khi quân Tam phủ lập Trịnh Tông, ông lại được thăng Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công kiêm Trấn thủ Sơn Tây (1782); năm sau, lại được thăng làm Tham tụng. Sự việc kiêu binh làm loạn đã khiến ông phải lánh nạn lên Sơn Tây. Tại đây, ông cùng em trai là Nguyễn Điều bàn tính việc đưa quân về dẹp kiêu binh nhưng không thành. Năm 1786, ông bị bệnh rồi mất tại kinh thành Thăng Long.

Sự nghiệp của Nguyễn Khản trải nhiều thăng trầm, nhưng ông luôn được vua Lê, chúa Trịnh yêu quý và trao cho nhiều trọng trách. Những chức vụ ông từng kinh qua như: Hàn Lâm viện Đại học sĩ, Hữu Thị lang bộ Lại, tham gia quân vụ chức Đô đốc, Tham tụng kiêm Trấn thủ Sơn Tây, Hưng Hóa, Tế tửu Quốc Tử Giám, Nhập thị Tham tụng. Khi mất, “Triều đình nhà Lê xét ông có công phù tá truy tặng ông hàm Thái tử, Thái bảo, tên thụy là Hoàn Mẫn”2.

Nguyễn Khản đã có đóng góp cho văn hoá Thăng Long trên nhiều mặt như giáo dục, lễ chế, văn học, kiến trúc và đặc biệt là âm nhạc. Hoàng Lê nhất thống chí chép: “Tính Khản hào hoa, trong lâu đài không mấy khi dứt tiếng sênh ca, hoặc tiếng ngâm thơ, đánh đàn để mua vui. Người ta thường xem Khản là bậc phong lưu đại thần. Tại đình Kim Âu, nơi Khản ở, có đủ cả nước, non, trúc đá, cảnh trí hết sức thú vị…”3.

Có thể nói, đến đời thứ 6, thứ 7 (Nguyễn Nghiễm - Nguyễn Khản), dòng họ Nguyễn Tiên Điền đã thuộc vào hàng đại quý tộc. Phụ đăng khoa kế tử đăng khoa/ Thế chưởng quân hành Nguyễn tướng gia. Có nghĩa: Cha đăng khoa con kế tiếp đăng khoa/ Vận số cân bằng Nguyễn tướng gia. Hay: Cha tiến sĩ con tiến sĩ/ Cha con tiến sĩ đồng triều… là những câu đối để nói về dòng họ Nguyễn Tiên Điền.

Như vậy, cùng với truyền thống văn chương, khoa bảng nổi tiếng thì tước vị Quận công cũng là một điểm nhấn ấn tượng của dòng họ Nguyễn Tiên Điền đóng góp vào tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam.

N.T.L

________________

1. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi, Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 – 1919), Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 592.

2. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi, Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 – 1919), Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 618.

3. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb văn học, Hà Nội, 2002, tr.56.

. . . . .
Loading the player...