10-12-2021 - 08:21

MỘT NÉT ĐẸP CẦN KHAI THÁC KHI DẠY HỌC THƠ HUY CẬN  TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM        

Chuyên mục Dành cho nhà trường, Tạp chí Hông Lĩnh số 183 tháng 11/2021 trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Lê Hồ Quang "Một nét đẹp cần khai thác khi dạy học thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám"

 một nét đẹp cần khai thác khi dạy học thơ huy cận

 trước cách mạng tháng tám                                                           

         

1. Nói về thơ Huy Cận, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nhận xét: “Có người sẽ bảo thơ Huy Cận già. Già vì buồn, già vì hay kể lể những chuyện xưa. Nhưng trong đời người ta có tuổi nào hay buồn hơn tuổi hai mươi. Còn có tuổi nào hay vẩn vơ hơn. Tôi thấy thơ Huy Cận trẻ lắm”. Nhận xét ấy thực chính xác, nó chỉ rõ điểm cốt yếu của tiếng thơ Huy Cận - ấy là tiếng thơ của một con người “trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng”. Ta cũng có thể diễn đạt sự “trẻ lắm” ấy theo cách khác, đó là tươi mới trong xúc cảm và hiện đại trong thi pháp. Sự xác lập vị trí nhanh chóng và vững bền của Huy Cận trong phong trào Thơ mới chắc chắn xuất phát từ chính sự trẻ trung, hiện đại này.

Nhưng theo quan sát cá nhân tôi, ở trường phổ thông, khi nói đến thơ Huy Cận ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, cụ thể là trong tập Lửa thiêng, người ta thường quan tâm chú ý và đề cao phần “già” (nỗi sầu nhân thế - vũ trụ, vẻ đẹp cổ điển, tính chất tượng trưng, phổ quát…) hơn là phần “trẻ” (sự mới mẻ, hiện đại, thanh tân). Điều này càng được nhấn mạnh khi trong chương trình Ngữ văn THPT hiện hành, Huy Cận được dạy học cùng (và thường được đặt trong mối liên hệ so sánh, đối chiếu) với Xuân Diệu, người bạn thơ thân thiết của ông, cũng là một tác gia hàng đầu thời Thơ mới. Đành rằng, việc định danh thơ Huy Cận thời Lửa thiêng bằng các định ngữ như “hàm súc, giàu suy tưởng, triết lý”, “cái tôi cô đơn trước thiên nhiên”, “vẻ đẹp cổ điển”, “họa điệu giữa hồn người và tạo vật”, “lòng yêu nước thầm kín thiết tha”, “sầu nhân thế” là hoàn toàn đúng (và những đặc điểm này thể hiện rất rõ qua Tràng giang, bài thơ được chọn dạy học trong chương trình Ngữ văn THPT hiện hành). Nhưng thơ Huy Cận thời kỳ này không chỉ có vậy. Nhiều bài trong Lửa thiêng rất tươi mới và giàu xúc cảm cá thể, chỉ có điều chưa đến được với rộng rãi bạn đọc. Điều này khiến nhiều độc giả trẻ trong nhà trường thường có ấn tượng không đầy đủ, nếu không nói là khá phiến diện về thơ Huy Cận. Do đó, họ chủ yếu đọc/ nghĩ về ông như một tác giả thơ tuy giàu triết lý, có vẻ đẹp cổ điển và tao nhã nhưng khá xa cách với tuổi trẻ.

Vì những lẽ trên, tôi nghĩ cần phải nói về nét đẹp thanh xuân, tươi mới trong Lửa thiêng của Huy Cận, để bổ sung và khẳng định về những phẩm tính thẩm mĩ trong thơ tác giả này. Và cũng để nhấn mạnh một điều: Huy Cận không chỉ là một nhà Thơ mới giàu tính cổ điển, ông cũng thực sự là nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêu. 

 2. Như phần lớn các tác giả Thơ mới, Huy Cận viết Lửa thiêng khi tuổi đời còn rất trẻ. Nhãn quan thơ của Huy Cận là nhãn quan của một con người trẻ tuổi, tài hoa và nhạy cảm. Nhãn quan này chi phối trên nhiều phương diện thơ ông, từ hình tượng cái tôi, đến không gian, thời gian được mô tả, tái hiện. Trong Thơ mới, có lẽ Huy Cận là người viết nhiều nhất về cái trẻ - tươi - non của tuổi hoa niên trong đời người.

Bởi vậy, cũng thật dễ hiểu khi cái tôi trữ tình trong thơ ông được khắc họa chủ yếu qua phương diện tâm hồn, tấm lòng (nghĩa là phương diện tinh thần, xúc cảm), mà lại là lòng mới nở, lòng mới mẻ, lòng trai thơm ngát, lòng trai mở cánh yêu, lòng hoan lạc, lòng mê say, lòng non dại… Mơ, mộng, do đó, trở thành một dấu hiệu thẩm mỹ nổi bật để nhận diện chân dung đích thực của cái tôi này: Yêu giữa đời mà hồn ở trong / Tình rộng quá, đời không biên giới nữa (Tình tự); Dịu dàng áo trắng trong như suối/ Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay (Áo trắng); Bàn tay vơ vẩn đưa trang sách/ Mộng tưởng phiêu lưu bức địa đồ (Học sinh)… Hình ảnh “Chàng trai gối mộng trên trang sách”, do đó, có thể xem là một hình ảnh mô tả đời sống học sinh giàu thi tính của Huy Cận, đồng thời cũng gợi ra một bối cảnh học đường hiện đại, đã rất khác so với thời trước đó. 

Không gian của của tuổi hoa niên trong thơ Huy Cận, bị chi phối bởi nhãn quan lãng mạn, nhất định phải là không gian của hương thơm và sắc màu. Có sắc màu thực: “Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương”; Có màu sắc mộng ảo: Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong. Và rộng hơn, mộng và thực giao hòa trong “màu tươi” sự sống: “Bắt gặp màu tươi lên rún rẩy/ Trong cành hoa trẻ cổ chim non”. Và hương thơm. Rất nhiều hương thơm. Là hương thực, của “Luống đất thơm hương mùa mới dậy”, của “hoa lá nở chuông rền giọng thắm”; của “xuân trải lụa muôn tờ lá non”, của “lá thơm như thể da người, lá thơm”… Nhưng hương thơm ấy, xét đến cùng, cũng là hương lòng, hương tình, khởi tỏa từ trong những hồn thanh tân: “Thơm tho quá, lòng ơi, vườn mới xới”. Từ những chi tiết, hình ảnh cụ thể, tươi tắn, nhà thơ đã đẩy tới sự hình dung bao quát về Đời như một “cõi biếc” ở đó, Thơ, Nhạc, Cái Đẹp, Tình yêu quyện vào nhau, khăng khít không rời: Chở hồn lên tận chơi vơi/ Trăm chèo của Nhạc muôn lời của Thơ (Trông lên).

3. Với Huy Cận, vẻ đẹp thanh xuân của con người tập trung ở lứa tuổi hoa niên. Không gian của lứa tuổi ấy là không gian học đường, của sách vở, sân trường, ngói nâu, tường trắng, cửa gương với tiếng học bài và những rung động dịu nhẹ, trắng trong, thầm kín thuở đầu đời.

Tựu trường là một bài thơ xuất sắc của Huy Cận về đề tài tuổi học trò. Ngôn ngữ thơ tự nhiên, trong trẻo, diễn tả trọn vẹn cái cảm giác “giờ nao nức của một thời trẻ dại”. Không cầu kỳ, trau chuốt “dụng chữ”, Tựu trường tự nó có những điểm rất khác biệt với Tràng giang, Ngậm ngùi, Vạn lý tình, Đẹp xưa..., nghĩa là những bài đạt đến độ điêu luyện cổ điển, vốn được xem là tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận từ trước đến nay. Tựu trường là một bản hòa sắc giản đơn mà rực rỡ giữa “linh hồn bằng ngọc” của “những chàng trai mười lăm tuổi” và những sắc màu nguyên bản của không gian: “quần áo trắng”, “ngói nâu, tường trắng”. Cả một hệ thống tính từ dày đặc được huy động để diễn tả cái nao nức, non tơ, trong trẻo trong những rung động tâm hồn: nao nức, trẻ dại, non dại, mới mẻ, ngập ngừng, run run, rụt rè, ấm áp, xôn xao, tin cậy, thơm ngát... Cảm giác về sự tươi mới, thanh tân xuyên suốt Tựu trường. Cũng chính ở Tựu trường, tiếng lòng “trẻ dại” ấy đã được chuyển tải bằng một bút pháp mới mẻ mà vẫn hết sức tự nhiên... Nó cho thấy một Huy Cận trẻ trung “đúng tuổi”, “đúng giọng”. Nó cũng cho thấy nét đẹp mộc mạc tươi trẻ của hồn người.

Một nghịch lý là dù khi bắt đầu sáng tác, các tác giả Thơ mới phần lớn đều ở tuổi hoa niên, song mảng thơ nói về đề tài học trò trong Thơ mới không nhiều. Ngoài Huy Cận và Xuân Diệu, ta có thể tìm thấy thêm một số ít bài như Quyển vở nháp, Chủ nhật, Những ngày nghỉ học, Trường xưa của Tế Hanh, Nghỉ hè của Xuân Tâm...  Về đề tài này, những bài đáng chú ý của Xuân Diệu là Giới thiệu, Trò chuyện với thơ thơ, Lưu học sinh... Tuy nhiên, tuổi học trò dường như không phải đích chính trong cảm hứng thơ Xuân Diệu, ông quan tâm đến những tình cảm luyến ái đắm đuối hơn là vẻ đẹp tự thân của tuổi học trò. Huy Cận thì khác. Tuổi học trò với ông dường như mang chứa một thứ ánh sáng và niềm vui đặc biệt khác lạ. Đời học sinh, trong mắt ông, được mô tả với rất nhiều tâm tình trìu mến. Và trong những tâm tư bẽn lẽn của tuổi học trò, ông nhìn thấy ở đó vẻ đẹp ban sơ, trinh bạch trong tâm hồn con người và đời sống vũ trụ, lúc khởi thủy. Dù số lượng không nhiều, song những bài thơ viết về tuổi học trò của ông luôn toát lên vẻ đẹp và sức sống riêng.

 Nếu trong thơ Hàn Mặc Tử, hình ảnh áo trắng gợi nên biết bao cách biệt và nỗi xót xa (Áo em trắng quá, nhìn không ra), thì trong thơ Huy Cận, nó đã trở thành biểu tượng cho sự gặp gỡ và hòa hợp (Dịu dàng áo trắng trong như suối - Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay). Nếu với Hàn Mặc Tử, Em chỉ đến trong mộng, thì với Huy Cận, Em đã đến trong đời. Nhưng sự xuất hiện của Em luôn được tác giả “mộng hóa”. Ông đồng nhất Em với Áo trắng. Áo trắng trở thành một biểu tượng trùng khít với Em, với sự đơn sơ và trong trắng của tâm hồn. Ông còn siêu nhiên hóa sự xuất hiện của Em bằng một loạt ẩn dụ: Nở bừng ánh sáng, gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng; khiến Em hiện ra với tư thế thánh nữEm ban hạnh phúc chứa đầy tay. Và ông còn đ?t Em trong ?? l?i th?i gian, nh?m t?o ra?ặt Em trong độ lùi thời gian, nhằm tạo ra độ mờ nhòe cần thiết cho hình tượng: Hôm xưa em đến... Cách mô tả vẻ đẹp thể chất của con người ở đây nhằm gây ấn tượng về sự hoàn mĩ, chứ không nhằm khêu gợi những rung động nhục thể. Chính vì vậy, dù có nhắc đến những môtíp như tay, má, môi, ngực... nhưng Huy Cận luôn trung thành với cái ngưỡng cảm xúc thẩm mĩ của mình. Hoặc ông chọn những thi liệu ít nhiều đã quen thuộc trong thơ xưa, gợi nhiều ý nghĩa tượng trưng, ước lệ (đôi mắt, nụ cười) hoặc sử dụng những cách diễn tả riêng nhằm mục đích “tinh thần hóa” vẻ đẹp vật chất của con người. Sự đồng nhất hồn người với những trạng thái tinh thần như “mới mẻ”, “trong trắng”, “thơm ngát”... cũng sẽ tạo nên một đặc tính trong thơ tình Huy Cận: trong sáng, nên thơ và thiên về những trạng thái rung động nhẹ nhàng của tâm hồn. Rõ ràng, đấy là một nhãn quan tình yêu tuổi thiếu thời rất khác với Xuân Diệu, hay Hàn Mặc Tử hay Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính... của thời Thơ mới. Và cũng rất khác với thơ Nguyên Sa hay Nguyễn Tất Nhiên về sau này.  

4. Dĩ nhiên, bên cạnh cái nhìn và giọng điệu tươi trong, “rún rẩy” về thế giới này, đã sớm trỗi lên trong Lửa thiêng, điều mà nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung chỉ ra, một cảm xúc và giọng điệu bi thương sầu muộn, chất chứa ngay trong bài đầu tiên, và sau đó là nhiều bài khác nữa: Trình bày,Buồn đêm mưa, Mai sau

Những chất liệu của đời sống thực đã được tái tạo lại trong tâm hồn thi sĩ rất mực nhạy cảm và tài hoa, người dễ dàng “tủi nắng sầu mưa/ Cùng đất nước và nặng buồn sông núi”, thành mối “sầu vạn kỷ” bao trùm vũ trụ và hồn người. Dĩ nhiên ta không nên quy chiếu nguyên nhân nỗi buồn sầu trong thơ một cách trực tiếp, đơn giản vào đời tư tác giả. Những tình cảm, cảm xúc trong thơ nói riêng, nghệ thuật nói chung không đơn thuần hình thành từ  những lý do xã hội học. Nhà thơ đã chia sẻ điều này qua một số lần trao đổi, trò chuyện [4; 226-227]. Điều này cũng đã được nhiều nhà phê bình, nghiên cứu nói tới (Hoài Thanh, Xuân Diệu, Hà Minh Đức, Trần Khánh Thành, Đỗ Lai Thúy…). Sự thực buồn, sầu là một đối tượng phản ánh, cũng là một giá trị thẩm mỹ nổi bật trong thơ lãng mạn. Lưu Trọng Lư tuyên ngôn: Thuyền yêu không ghé bến sầu/ Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng. Chế Lan Viên tuyên bố: Với tôi tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau. Nỗi buồn sầu trong thơ Vũ Hoàng Chương thê thiết não nề. Nỗi buồn sầu trong thơ Hàn Mặc Tử được đẩy đến mức “điên cuồng”, “tê điếng”. Buồn sầu, trong thơ Xuân Diệu cũng được nói đến khá thường xuyên, như một âm bản không thể tách rời lòng yêu đời vồ vập cuống quít, một thứ “đặc sản” của “ông hoàng thơ tình”. 

Nhưng nỗi buồn sầu đó không thể át được dòng mạch thanh xuân trong những câu chữ của Lửa thiêng. Sự thật là, xuyên qua những câu thơ viết về nỗi buồn của Huy Cận, ta vẫn nhận ra tấm lòng yêu đời mạnh mẽ, trong lành. Sự ngọt ngào trong trẻo của những tình cảm, xúc cảm tuổi hoa niên, hay lòng yêu đời thiết tha chan chứa khiến ông có thể nhìn ra được mạch sống ấp ủ trong vạn vật và sau này sẽ đẩy ông đi xa hơn đến với sự gần gũi nhân quần. Cái nhìn tươi tắn, lạc quan ấy xuất phát từ một “hồn trẻ mạnh” - cái tôi ở tuổi xuân thì của tác giả. Nó cũng được hỗ trợ bởi cảm quan thẩm mỹ của thời đại Thơ mới, khi ý thức cá nhân xuất hiện trong đời sống thị dân một cách công khai, và được xem như một giá trị trong sáng tạo nghệ thuật.

Sự kết hợp giữa tính chất cảm nghiệm trực tiếp với tính chất triết lý siêu hình đã tạo nên một cấu trúc thơ độc đáo, thể hiện ngay từ tên thi phẩm: Lửa thiêng. Nó vượt lên những kinh nghiệm cá nhân để khái quát về nhân quần và thế giới bằng thông qua/ bằng một nhãn quan vũ trụ mang tính siêu nghiệm. Điều này khiến thơ tình Huy Cận không dừng lại ở việc mô tả chính xác, tinh vi những cảm xúc đầu đời của cái tôi cá nhân (mặc dù đó cũng là một thành công đáng kể). Những tình cảm, cảm xúc ấy, trong thơ Huy Cận, như đã phân tích trên, luôn được nhìn nhận, mô tả trong sự suy tư có tính phổ quát về đời sống nhân thế, vũ trụ, vốn là những yếu tố có thể tạo nên một tầm vóc thẩm mỹ khác hẳn, so với kiểu thơ tình học trò thuần túy. Như vậy là, nằm trong chỉnh thể Lửa thiêng, những bài thơ tình của Huy Cận một mặt tạo nên vẻ đẹp tươi mới, đầy xúc cảm và thi vị, mặt khác, chúng cũng hoàn toàn thống nhất với mạch cảm hứng chung của toàn tập, khi những cảm xúc về tình yêu, về tuổi hoa niên hòa trộn với những ưu tư về đời sống nhân thế, về vũ trụ. Chúng tạo nên một sắc thái thẩm mỹ đặc thù trong sáng tác của ông giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.

5. Theo định hướng Chương trình GDPT 2018, Huy Cận vẫn sẽ là một tác giả không thể thiếu trong chương trình môn Ngữ văn ở phổ thông. Tuy nhiên, tôi nghĩ cần thiết phải bổ sung, mở rộng thêm trong cách nhìn, cách mô tả và lý giải về thơ ông. Đặt trong yêu cầu phát triển chương trình môn Ngữ văn, việc dạy học về tác giả này, một mặt, cần được nhìn rộng ra, đồng thời gần gũi hơn với năng lực và thị hiếu thẩm mĩ của học sinh. Bên cạnh Tràng giang, rất nên hướng dẫn học sinh tiếp cận với một số tác phẩm khác của Huy Cận, để các em hiểu hơn về ông, và quan trọng hơn, để nhận ra lý do thật sự đã biến ông, cùng với người bạn thơ thân thiết của mình - Xuân Diệu, trở thành những ngôi sao sáng chói trên thi đàn Thơ mới: họ là đại diện đích thực của tâm hồn tuổi trẻ.

Tóm lại, về phía cá nhân, tôi hoàn toàn đồng thuận với ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trước về giá trị thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Với giới hạn chương trình phổ thông hiện nay, việc lựa chọn Tràng giang là có lý và sự định danh phẩm tính thơ Huy Cận thông qua Tràng giang là có cơ sở. Vấn đề là, Huy Cận không chỉ có mỗi Tràng giang và học sinh phổ thông rất cần mở rộng diện đọc cũng như cách đọc về tác giả này. Sự thực là thơ Huy Cận, chính ở phần ít được nói đến trong nhà trường, hết sức gần gũi với lứa tuổi học trò, do đó, nó có khả năng nuôi dưỡng và làm nảy nở ở các em niềm vui thích tự nhiên với thơ ca. Qua đó, ta có thể dần hình thành ở các em những phẩm chất, năng lực cần thiết trong việc đọc thơ Huy Cận nói riêng, văn học nói chung, một mục tiêu căn bản, thiết thực được đặt ra trong chương trình giáo dục phổ thông mới.    

              Vinh, 30/5/2019

              Lê Hồ Quang

. . . . .
Loading the player...