Tạp chí Hồng Lĩnh số 228 tháng 8/2025 trân trọng giới thiệu bài viết “Lửa lũ và trái tim người giữ bản” của nhà văn Vi Hợi
Tôi trở lại Tam Thái sau cơn đại hồng thủy cuối tháng Bảy. Mảnh đất ven sông Lam vừa trải qua một trận lũ dữ dội nhất trong nhiều năm qua - một vết xước lớn hằn lên núi rừng miền Tây Nghệ An. Vẫn là những bản làng thân thuộc: Cây Me, Tân Hợp, Na Tổng, Cánh Tráp, bản Lũng, bản Can... nhưng đâu đó vẫn còn vết bùn in trên nền nhà, còn những tấm lợp rách treo lủng lẳng bên mái hiên và ánh mắt người dân chưa hết bàng hoàng.
Tam Thái những ngày sau lũ như một bức tranh loang lổ bùn đất và nước mắt. Nhưng bên trong sự hoang tàn ấy là ánh mắt, là bàn tay và đôi chân không ngừng nghỉ của cả xã - từ cán bộ đến dân làng, từ trẻ con đến người già - đang căng mình làm lại từ đầu.
Tôi đến không chỉ để nhìn lại một địa phương bị thiên tai tàn phá, mà để gặp lại những người đã sống, chiến đấu và đứng lên từ trong chính tâm lũ. Một cuộc gặp gỡ đầy cảm xúc giữa tôi - người viết - và những nhân chứng thầm lặng của một trận “thủy chiến” mà kẻ thù là nước, là đói, là cô lập. Và ở giữa dòng cuồng nộ ấy, Tam Thái đã dạy tôi một bài học lớn: chống lũ bằng bản lĩnh, bằng tình người - và trên hết - bằng niềm tin vào nhau.
*
“Chưa bao giờ chúng tôi chứng kiến con nước dữ như thế” - ông Lữ Văn May, Bí thư Đảng ủy xã Tam Thái, tay cầm bàn vét, người lấm lem bùn đất bắt đầu câu chuyện như một dòng hồi tưởng còn thảng thốt. “Từ ngày 21 đến 26 tháng 7, lượng mưa trung bình tại địa phương vượt ngưỡng 300mm. Những dòng nước hung hãn từ núi rừng, kết hợp với việc xả lũ từ các hồ chứa như Thủy điện Bản Vẽ, khiến toàn xã rơi vào tình trạng khẩn cấp chưa từng có. Trong chớp mắt, hàng trăm ngôi nhà, hàng chục ha ruộng lúa, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, hàng trăm con gia súc, gia cầm, ao cá… bị nhấn chìm, bị cuốn trôi. Những bản làng như Cành Tráp, Cây Me, Tân Hợp… bị cô lập hoàn toàn.”
Lũ rút, hạ tầng tan hoang, tất cả trường học, nhà văn hóa, trạm y tế, đường sá… đều biến dạng, đứt gẫy, sạt lở, bị ken dày bùn đất. Tại thời điểm tôi đến có những nhà mà chủ nhân của nó chưa thể trở về vì trong nhà còn những lớp bùn nhão nhoẹt dày hơn 1 mét, thậm chí 3 mét. “Tổng thiệt hại ước tính 45 tỷ đồng - một con số quá lớn với một xã miền núi mới sáp nhập còn nhiều khó khăn.” - Ông Lữ Văn May nói mà lòng đầy xót xa.

Lũ tàn phá bản, làng - những ngôi nhà chìm sâu trong lũ
“Có những đêm không dám ngủ”, anh Lô Dương Khánh - Chủ tịch UBND xã, người gầy đi thấy rõ sau nhiều đêm thức trắng - kể lại. “Đêm 22/7, khi thủy điện Bản Vẽ bắt đầu xả lũ với lưu lượng lớn, Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn (PCTT-TKCN) xã lập tức phát lệnh sơ tán dân khẩn cấp. Lệnh được đưa ra lúc 22 giờ, với ngưỡng cảnh báo lấy mốc 3 mét so với đỉnh lũ lịch sử năm 2018. Trong điều kiện trụ sở của xã đặt tại xã Tam Hợp cũ cách tâm lũ 16 km bị cô lập do sạt lở đường, lũ từ các con suối dâng cao, cầu tràn Xốp Nặm, bản Khổi bị ngập sâu không thể lưu thông được, lãnh đạo xã phải chỉ đạo bằng điện thoại, gọi điện trực tiếp, nhắn tin trên nhóm chát Zalo.”
Giọng anh Khánh bỗng lặng đi “Không phải ai cũng tin lũ sẽ về. Một số hộ dân cố thủ ở nhà, buộc lực lượng công an, dân quân tự vệ phải trực tiếp đến cưỡng chế di dời. Đến 2h sáng ngày 23/7, khi nước bắt đầu dâng mạnh, toàn xã mất liên lạc vì không có sóng điện thoại. Không thể chỉ đạo từ xa, không thể chờ tỉnh hỗ trợ, tất cả cán bộ xã buộc phải hành quân bộ vào vùng nguy hiểm. Băng rừng, vượt lũ, leo núi - không có áo mưa chuyên dụng, không có đèn pin đủ sáng - chỉ có quyết tâm giữ dân cho bằng được.”
Tôi lặng người khi nghe họ nhắc lại từng khoảnh khắc ấy - như thể từng vết xước của trận lũ vẫn còn nguyên trên bàn tay, trên đôi chân, trong đáy mắt. Những câu chuyện tưởng như chỉ có trong phim ảnh, nay hiện lên từ những người thật, việc thật, với giọng kể bình dị mà sâu thẳm. Có nữ cán bộ xã, dù nhà mình cũng bị ngập, vẫn bám trụ ở sở chỉ huy nấu ăn cho lực lượng chống lũ. Có người đi phát cơm hộp cho dân, rồi chính mình chiều tối về mới kịp ăn một cái bánh mì đã thấm nước mưa. Có đứa trẻ đứng giữa sân ngập nước, một tay nhặt lấy cuốn vở còn sót lại từ lớp bùn, tay kia chìa nửa chiếc bánh quy cứu trợ cho bạn: “Bố em bảo, ai cũng khổ như nhau...”.
Giữa ngổn ngang hậu lũ, người ta thấy bừng lên tinh thần “thương người như thể thương thân”, thấy cán bộ không chỉ ra chỉ thị mà cùng dân gánh lúa, dọn bùn, nấu cơm, dựng lại mái nhà đổ. Thấy bản sắc Tam Thái được thử thách và khẳng định bằng lòng yêu thương và tinh thần đoàn kết.
Anh Lang Văn Hiển - cán bộ xã đặt bao đựng rác thải trên vai xuống đất, nhớ lại cuộc họp khẩn cấp sáng 23/7: Hôm đó họp cán bộ toàn xã và các lực lượng bộ đội biên phòng, công an xã, sau khi nghe Bí thư Lữ Văn May quán triệt: Chúng ta phải xác định tinh thần chống lũ như chống giặc. Phải giữ dân an toàn, dù bằng mọi giá. Không thể ngồi chờ cấp trên. Nghe xong, tất cả đồng thanh: Chờ cấp trên thì quá muộn. Phải tự cứu mình trước thôi.
Một Ban chỉ huy khẩn cấp được thành lập ngay giữa vùng cô lập. Nơi đó, từng quyết định được đưa ra bằng đầu lạnh, từng hành động được vận hành bằng trái tim nóng. Năm tổ công tác đặc biệt được chia đều: cứu hộ, tiếp tế, hậu cần, tiếp nhận cứu trợ và tổ chỉ huy điều phối. Mỗi bộ phận làm việc như mắt xích của một cỗ máy đồng bộ.
Không có xe chuyên dụng, họ dùng xe kéo, xe công nông, tay cuốc, tay xẻng. Đường lầy, họ bốc từng bao rác bằng tay. Nước ngập, họ lội đi phát cơm, thuốc men. Những con đường bị bùn vùi gần hai mét được xã thuê máy xúc san phẳng để kịp đưa hàng vào cứu trợ các bản Cây Me, Tân Hợp - vì “ngồi chờ thì dân chết đói”.
Tam Thái vận hành trong lũ không khác gì một đơn vị chiến đấu. Có kỷ luật, có tổ chức, có chia sẻ - nhưng quan trọng hơn cả là có niềm tin tuyệt đối giữa cán bộ và nhân dân.
Tôi đã gặp nhiều cán bộ xã, huyện - nhưng ở Tam Thái, tôi gặp những con người làm việc không phải bằng chức danh, mà bằng lòng thương và trách nhiệm.
Anh Lô Dương Khánh - Chủ tịch xã - là người đầu tiên vác gạo lội lũ vào bản Cành Tráp. Mặt mũi bám bùn, vai trĩu nặng, nhưng tay không rời điện thoại dù không còn sóng. “Tôi sợ bỏ lỡ tin báo nguy hiểm. Cái giá phải trả là quá đắt nếu để dân xảy ra chuyện.”
Ông Lữ Văn May - Bí thư Đảng ủy - đích thân cùng nhân dân dọn bùn, gom rác. “Bí thư cũng là người dân, không có lý do gì để đứng nhìn,” ông cười khẽ.
Tôi nhớ mãi ánh mắt anh Vương Trung Úy - Chỉ huy trưởng Tổng đội TNXP 9 Nghệ An - khi cười giữa đống rác thối ngập đầu gối: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, nay lũ ngập làng, chẳng ai đứng ngoài.”
Không khẩu hiệu, không bàn giấy, chỉ có tay cuốc, tay xẻng, xe kéo thô sơ và những tấm lòng rắn rỏi. Họ bốc từng bao rác, bới từng đống bùn, đào từng đoạn đường bị vùi lấp để nối lại nhịp sống.
Họ không cần tuyên dương. Không cần ảnh đẹp trên mạng xã hội. Họ làm vì cái nghĩa với bản làng, cái tâm của người cán bộ sống gần dân, sát dân, vì dân - như Bác Hồ từng dạy. “Cán bộ là đầy tớ của dân chứ không phải làm quan phát lệnh” - ông May trích lại lời Bác trong buổi họp cuối ngày 24/7. Tôi thấy ánh mắt nhiều người dân ướt nhòe. Không phải vì lũ, mà vì xúc động. Ông Kha Văn Hợi, nguyên Phó Chủ tịch HĐND huyện, nay đã gần 90 tuổi nói với tôi mà mắt đỏ hoe: “Tôi tự hào khi thấy lớp trẻ hôm nay sống đúng với lời Bác Hồ dạy: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Giữa lúc hoạn nạn, phẩm chất người cán bộ sáng lên như ánh lửa giữa đêm đen.”
Anh Xồng Bá Nỏ (dân tộc Mông) - Chủ tịch MTTQ xã nhớ lại ngày đầu bắt tay vào công việc khắc phục hậu quả sau lũ: Một chủ trương đầy nhân văn được lãnh đạo xã ban hành: “Nhà nào không ngập phải giúp nhà bị ngập. Ai có gì cho nấy. Tất cả toàn dân tham gia khắc phục hậu quả sau lũ”. Chủ trương đó đã được MTTQ xã truyền đạt đến từng hộ gia đình và được toàn dân hưởng ứng.
Tôi hiểu, đó không phải mệnh lệnh mà là lời kêu gọi đầy tình cảm, đã đánh thức trái tim từng người nên được toàn dân hưởng ứng rầm rộ. Những người dân bản Lũng, bản Tân Hợp, Cây Me, Cánh Tráp… dù kiệt sức, vẫn xắn tay cùng nhau nấu cơm, đưa nước, quét dọn, dựng lại nhà cửa cho hàng xóm. Có lẽ chẳng ai quên được hình ảnh anh Lô Trung Đức - một người dân bình thường, không nằm trong bất kỳ tổ chức nào, nhưng khi thấy các lực lượng hỗ trợ dân làm việc thâu đêm dưới mưa, bùn và lạnh, anh đã tự nguyện nấu cháo cho mọi người suốt những đêm lũ. “Tôi nghĩ đơn giản thôi, người ta lo cho cả bản, cả xã mình, thì mình cũng phải lo cho họ.” - anh cười hiền.
Bộ phận hậu cần của xã cũng được kích hoạt khẩn cấp, chia từng nhóm: người nấu, người đóng hộp cơm, người lội nước đưa đến các nhóm cứu hộ, nhóm gom rác thải và các hộ gia đình neo đơn, không còn bếp, không có lương thực. Có những chị vác bao gạo nặng cả chục ký lội bùn tới bản Lũng, Cành Tráp, Na Tổng… rồi quay về ngay dưới trời mưa trong khi nhà mình cũng đang bị ngập chìm trong lũ. Ông Lô Văn Doạt - Trưởng bản Cành Tráp vẫn còn cảm động khi nhớ lại: “Bữa cơm nhận được trong những ngày lũ bủa vây, ăn vừa xúc động, vừa cay mắt. Không phải vì ớt, mà vì ơn.”
Nghe tin bếp 0 đồng nổi lửa, bà con các bản không bị ảnh hưởng nhiều đã tự tay đưa những mớ rau, quả mướp, buồng chuối, trứng gà, trứng vịt, có người đem cả bì gạo, con gà… đến góp phần cùng cả xã khắc hục hậu quả sau lũ. Có những người lặn lội hàng chục cây số. Có chị em vừa nấu cơm, vừa hát ru con ngủ, vừa bưng cơm vào vùng ngập. Có người nôn ói vì mùi rác, có người chảy máu cam do nắng sốc - nhưng chẳng ai rời vị trí.
Trong lũ dữ - người dân Tam Thái sống đúng tinh thần của dân tộc: lá lành đùm lá rách. Giữa thời đại mà người ta dễ quên nhau khi khó khăn, thì nơi đây - lòng người lại sáng như ánh lửa bếp đỏ rực giữa mùa mưa.
*
Người ta có thể lập hàng trăm phương án phòng, chống lũ, nhưng không có phương án nào bằng niềm tin của dân vào chính quyền và tinh thần tự cứu mình, đó là bài học chống lũ được đúc kết từ xã Tam Thái.
Tam Thái dạy tôi hiểu rằng: chống lũ không chỉ là công việc của ngành chức năng, mà là sự dấn thân của mỗi con người. Bài học ấy nằm trong đôi chân trần lội bùn của cán bộ, trong bàn tay đen nhẻm của bà cụ gùi rau, trong ánh mắt kiên định của Chủ tịch xã khi gào lệnh giữa đêm lũ.
Bài học ấy thấm đẫm triết lý của Bác Hồ: dân là gốc, cán bộ là người đầy tớ trung thành. Và chính tinh thần ấy đã giúp một xã nhỏ, nghèo, hiểm trở - đứng dậy vững vàng sau bão dữ.
Và tôi gọi Tam Thái những ngày qua là một “ngọn lửa lũ” - nơi mà tình người, bản lĩnh và sự dấn thân của những con người bình dị đã bừng sáng, như những đốm lửa giữa cơn giông bão.
Câu chuyện của Tam Thái không phải để kể lại một thảm họa, mà để ngợi ca những điều đẹp đẽ nhất từ lòng người. Viết về Tam Thái, tôi mong độc giả rưng rưng không chỉ vì thương xót, mà vì trân trọng - cảm phục - và học được từ một bài học giản dị: khi dân và cán bộ đồng lòng, chẳng có lũ nào nhấn chìm được bản làng này.
Tam Thái sau lũ, đất trời như được gột rửa. Những con đường lầy lội hôm nào giờ đã sạch sẽ, rộn ràng tiếng chổi tre, tiếng xẻng dọn bùn và cả tiếng cười nhẹ tênh của những cô gái bản đang phơi áo quần dưới nắng mới. Những đứa trẻ thả sức nô đùa trên nền sân trường đã khô, nhặt từng chiếc lá rơi, hồn nhiên như chưa từng biết đến những đêm trắng chập chờn tiếng nước gào bên khe suối. Người già thì thong thả trở lại với nhịp sống quen, ngồi bên hiên nhà nhâm nhi chén nước vối, ánh mắt xa xăm, đôi lúc lại nghèn nghẹn nhìn xuống dòng Lam đã hiền hòa chảy giữa đôi bờ xanh thắm. Cơn lũ dữ đã cuốn trôi nhiều thứ, nhưng không thể nào cuốn mất tình người. Sau hoang tàn là hồi sinh. Sau nước mắt là nụ cười. Sau mất mát là bài học lớn về niềm tin, về tình đoàn kết, và về một Tam Thái - dẫu bao lần nghiêng ngả, vẫn đứng dậy kiêu hãnh mà sống, mà yêu thương nhau, mà đi tới những ngày bình yên. Con đường sau lũ hôm nay đã quang đãng, sạch sẽ hơn. Những đứa trẻ thả sức nô đùa, tận hưởng những ngày hè còn lại.
Mùa thu đang tới, và Tam Thái - sau lũ - lại xanh ngời hy vọng.
V.H