11-10-2025 - 22:57

Hà Tĩnh trong tiến trình lịch sử dân tộc

Chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 – 2030. Tạp chí Hồng Lĩnh số 229 tháng 9/2025 trân trọng giới thiệu bài viết “Hà Tĩnh trong tiến trình lịch sử dân tộc” của PGS.TS Đinh Quang Hải

Hà Tĩnh là danh xưng để chỉ địa danh trên một không gian địa lý của một đơn vị hành chính cấp tỉnh nằm trên dải đất miền Trung của Việt Nam, phía Nam sông Lam.

Ngược trở lại từ thời xa xưa, ngay từ rất sớm, vùng đất nơi đây đã có con người sinh sống. Tại di chỉ Thạch Lạc, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy rất nhiều hiện vật quý hiếm, rất có giá trị, thể hiện cuộc sống sinh hoạt của con người ở nơi đây ngay từ thời kỳ hậu kỳ Đồ Đá Sơ kỳ Kim khí đã hết sức phong phú, với các đồ đá, đồ gốm, đồ xương được phân bố đều trong tầng văn hoá dày 2,7m. Các hiện vật khi phát hiện nằm lẫn lộn trong lớp sò, điệp, đất vụn và than đen.

Trải qua quá trình phát triển của lịch sử, con người trên vùng đất Hà Tĩnh ngày nay đã phải vừa đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt để sinh tồn, vừa phải cùng với nhân dân cả nước đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Mỗi vùng đất, mỗi cánh đồng nơi đây trải qua các thời kỳ lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm đã thấm đẫm biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu và nước mắt của những người con của vùng đất kiên trung này đã ra sức cống hiến, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh thân mình vì sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do cho đất nước và dân tộc

Lật giở lại các trang sử vàng son của dân tộc Việt Nam, các thế hệ người dân Hà Tĩnh đã đổ biết bao mồ hôi, công sức và không tiếc cả máu xương để đóng góp sức mình trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giành độc lập tự do cho quốc gia, dân tộc, góp phần tô thắm thêm những thành tích vào bản hùng ca chiến thắng oanh liệt trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Trong suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, người dân Hà Tĩnh cùng với nhân dân cả nước đã bao lần anh dũng đứng lên chống lại ách thống trị và đô hộ của giặc ngoại xâm. Ngày từ buổi đầu, người dân của vùng đất Hà Tĩnh đã tham gia vào cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, trước hết phải kể đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (quê xã Mai Phụ) vào năm 722. Mai Thúc Loan dựng cờ khởi nghĩa chống lại quan quân đô hộ nhà Đường. Ông đã cùng các nghĩa binh dựa vào núi Đụn ở Nam Đàn xây thành Vạn An. Nghĩa binh của ông phần lớn là người dân Hoan Diễn đánh đuổi Quang Sở Khách làm cho bọn thống trị nhà Đường kinh sợ. Thắng lợi rồi, nghĩa binh tôn Mai Thúc Loan lên làm vua gọi là Mai Hắc Đế. Đây là cuộc khởi nghĩa không chỉ lớn nhất ở Hoan Châu khi đó, mà còn là cuộc khởi nghĩa đã lật nhào được ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Cuộc khởi nghĩa này còn thể hiện một tinh thần đoàn kết quốc tế sâu sắc của người dân Hồng Lam thông  qua việc “Mai Thúc Loan đã liên kết với các nước Chân Lạp, Trảo Oa... và 32 châu quanh vùng, xây dựng được một đội quân khổng lồ khoảng 30-40 vạn người”1.

Năm 938, với chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, nước ta đã giành được độc lập. Tiếp theo sau đó, trong các triều đại phong kiến độc lập tự chủ, nhân dân Nghệ - Tĩnh đã trực tiếp đóng góp sức mạnh của mình vào sự nghiệp đấu tranh để bảo vệ non sông gấm vóc của Tổ quốc, góp phần làm rạng danh cho nòi giống.

Năm 1284, trước họa xâm lăng của quân Mông Nguyên, vua tôi nhà Trần “trên dưới một lòng” đã quyết tâm đánh giặc. Trong lúc thế giặc còn đang mạnh, vua tôi nhà Trần đã phải tạm rút khỏi kinh thành Thăng Long lui vào Thanh Hóa để bảo toàn lực lượng, lúc đó, Trần Nhân Tông nghĩ ngay đến Xứ Nghệ khi viết lên mạn thuyền hai câu thơ:

“Cối Kê cựu sự quân tu ký

Hoan Diễn do tồn thập vạn binh”.

Tạm dịch:

“Chuyện xưa Cối Kê người hẵng nhớ

Hoan Diễn kia còn chục vạn binh”.

Câu thơ trên thể hiện niềm tin tưởng của vua Trần đối với con người và mảnh đất Hồng Lam. Không phụ lòng tin của nhà vua, khi Toa Đô dẫn hai vạn quân từ Chiêm Thành kéo ra để đánh vào vùng sau lưng của vua tôi nhà Trần thì nhân dân Xứ Nghệ đã chặn đứng âm mưu thâm hiểm của đội quân nhà Nguyên, tiến hành các trận đánh để tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện cho nhân dân cả nước nhất tề đứng lên tiêu diệt kẻ thù ở bến Chương Dương, Hàm Tử.

Vào thế kỷ XV, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ, trước những khó khăn của buổi đầu “nếm mật nằm gai”, Lê Lợi đã đặt câu hỏi cho nghĩa quân: “Bây giờ ta đi đâu để lo việc nước?” Nguyễn Chích đưa ra câu trả lời với chủ tướng: “Nay ta trước hãy đánh thành Trà Long, giữ cho được Nghệ An làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân tài vật lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp thiên hạ”2. Lê Lợi theo lời của Nguyễn Chích chọn mảnh đất Hồng Lam làm “nơi đứng chân”. Được nhân dân Nghệ Tĩnh ủng hộ và đi theo, nghĩa quân Lam Sơn mở đầu bằng “trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật”, tiếp đến “miền Trà Lân trúc chẻ tro bay” đẩy quân Minh vào thế bị động. Từ mảnh đất Hồng Lam, nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Nam giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá; tiến quân ra Bắc làm nên những trận đánh vang dội ở Tốt Động, Chi Lăng… tiến tới giải phóng hoàn toàn Nghệ An và cả nước. Vào thời Lê sơ, Cương Quốc công Nguyễn Xí (quê ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh) lập được nhiều chiến công oanh liệt và có vai trò quyết định trong việc loại trừ phản tặc, đưa Lê Tư Thành (Lê Thánh Tông) lên làm vua mở đầu một thời kỳ hưng thịnh vào bậc nhất của chế độ quân chủ phong kiến nước ta.

Cuối năm Mậu Thân (1788), khi người anh hùng “áo vải cờ đào” Quang Trung Nguyễn Huệ trên đường tiến quân ra Bắc đánh đuổi quân Thanh âm lược, đội quân của Quang Trung Nguyễn Huệ  đã dừng chân tại quê tổ ở Nghệ An để tuyển thêm quân sĩ. Chỉ trong có mấy ngày mà đã có hàng vạn thanh niên Xứ Nghệ nô nức gia nhập nghĩa quân Tây Sơn, sự tham gia đông đảo và tinh thần hăng hái chiến đấu của những người con của xứ Nghệ đã góp phần quan trọng vào chiến thắng quân Thanh tại Ngọc Hồi và Đống Đa vào mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789).

Khi phong trào Cần Vương dấy lên, nhân dân ở Hà Tĩnh đã hưởng ứng rất sôi nổi, người người đua nhau tòng quân chống giặc; hầu như ở huyện nào, địa phương nào của Hà Tĩnh cũng có những đội quân hưởng ứng Cần Vương như: Lê Ninh, Phan Cát Tưu ở Ðức Thọ, Nguyễn Duy Chanh ở Can Lộc, Cao Thắng ở Hương Sơn, Nguyễn Cao Ðôn ở Thạch Hà, Hoàng Bá Xuyên ở Cẩm Xuyên, Ngô Quảng ở Nghi Xuân, Võ Phát ở Kỳ Anh, Trần Hữu Châu ở Hương Khê trong đó tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh và cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896) do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Ngày 5 - 11 - 1885, Lê Ninh lãnh đạo nghĩa quân tấn công thành Hà Tĩnh bắt giết được Bố chánh Hà Tĩnh là Lê Đại, giải phóng tù nhân, thu được nhiều vàng bạc khí giới. Việc thành Hà Tĩnh rơi vào tay nghĩa quân đã khiến cho thực dân Pháp và chính quyền tay sai hoảng sợ.

Tượng đài Phan Đình Phùng tại xã Vũ Quang - Ảnh: PV

Đặc biệt, khi nói đến Phong trào Cần Vương ở Hà Tĩnh, chúng ta không thể không nói tới cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896) do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Khởi nghĩa Hương Khê diễn ra rộng khắp trên địa bàn của bốn tỉnh: Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa với thời gian kéo dài 10 năm. Khởi nghĩa Hương Khê là đỉnh cao nhất của phong trào Cần Vương, nhiều phen gây cho kẻ thù “hồn xiêu phách lạc”.

Cùng với phong trào hoạt động cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, nhân dân Hà Tĩnh đã cùng với nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và chính quyền tay sai. Tại Hà Tĩnh đã thành lập các chi bộ cộng sản để lãnh đạo phong trào cách mạng quần chúng; từ kết quả của các cuộc tranh đấu đã dẫn đến chính quyền Xô Viết đã được thành lập ở nhiều xã của các huyện cũ: Can Lộc, Thạch Hà, Đức Thọ, Cẩm Xuyên, Nghi Xuân… Trong các Xô viết, quần chúng nhân dân tự tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và đó chính là những Xô viết đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam - Xô viết Nghệ - Tĩnh. Xô viết Nghệ - Tĩnh là một hình thức chính quyền cách mạng rất mới mẻ trong lịch sử dân tộc trong những năm 30 của thế kỷ XX ở Việt Nam. Đây là một dấu mốc lịch sử quan trọng trong hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân và đó chính là “giá trị của Xô viết Nghệ - Tĩnh trong lịch sử Đảng ta, đấy cũng là ý nghĩa của việc nghiên cứu Xô viết Nghệ - Tĩnh trong quá trình nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam3. Đây là cuộc diễn tập đầu tiên để đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Nhưng ngay sau đó, ngày 23-9-1945 thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam Bộ, chính thức quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Cả dân tộc Việt Nam lại phải bước vào cuộc chiến tranh vệ quốc để bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), nhân dân Hà Tĩnh luôn đề cao cảnh giác, chủ động đánh tan các cuộc cần quét của quân Pháp vào địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, tiêu biểu như trận Nam Bình (Thạch Hà) ngày 20/8/1953, trận chống càn ở Nhượng Bạn (Cẩm Xuyên) ngày 4/9/1953…

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Hà Tĩnh là một trong những địa bàn chiến lược đối với Quân khu 4 và của cả nước, là đầu mối giao thông chủ yếu để chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế đối với các tỉnh Trung, Hạ Lào và Campuchia. Chính vì vậy mà nơi đây trở thành một trong những khu vực trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay và hải quân Mỹ, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trên mặt trận giao thông vận tải. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã không ít lần tung gián điệp biệt kích, thám báo hoạt động ra chống phá hậu phương miền Bắc, trong đó địa bàn Hà Tĩnh là địa phương giáp danh với Quảng Trị, Vĩnh Linh nơi có giới tuyến quân sự tạm thời chia đôi hai miền Nam Bắc. Tại đây đế quốc Mỹ đã sử dụng trên 4 vạn lượt chiếc máy bay (kể cả máy bay ném bom chiến lược B52, máy bay cánh cụp cánh xòe F111) và hàng trăm tàu chiến trên biển, ngày đêm đánh phá ác liệt mảnh đất này. Chúng đã dội hơn 200.000 tấn bom, đạn các loại xuống Hà Tĩnh, gây ra rất nhiều thiệt hại về người và của cho quân và dân Hà Tĩnh. Nhưng với tinh thần “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Máu có thể đổ nhưng đường không thể tắc”… đã trở thành quyết tâm và phương châm hành động, gắn liền với những chiến công oanh liệt của mảnh đất và con người Hà Tĩnh anh hùng. Những tên đất, tên người như: Bến Thủy, Linh Cảm, Địa Lợi, Đèo Ngang, Ngã ba Đồng Lộc, Làng K130 (Tiến Lộc - Can Lộc), Núi Nài; Tiểu đội nữ dân quân Kỳ Phương (Kỳ Anh), Trung đội súng máy 12,7 ly dân quân thị xã Hà Tĩnh, Trung đội dân quân pháo binh Xuân Liên (Nghi Xuân); Anh hùng Dương Chí Uyển, La Thị Tám, chuyên gia phá bom nổ chậm Vương Đình Nhỏ, nữ dân quân bắt sống giặc lái Mỹ Nguyễn Thị Kim Lai… và đặc biệt sự hy sinh anh dũng của 10 cô gái Thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành biểu tượng sang ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tô thắm truyền thống vẻ vang của quê hương Hà Tĩnh.

Mùa Xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, nhân dân cả nước vui mừng phấn khởi chung tay xây dựng đất nước, thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, ngay sau đó nhân dân ta lại phải tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới ở phía Tây Nam, chống lại bè lũ Khơmer Đỏ lấn chiếm biên giới và giúp nhân dân Campuchia hồi sinh thoát khỏi họa diệt chủng; tiếp sau đó, từ năm 1979 đến đầu năm 1989, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta lại phải chiến đấu chống lại  kẻ thù tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới thuộc 6 tỉnh phía Bắc. Trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đó, nhân dân Hà Tĩnh đã tiếp tục truyền thống kiên cường bất khuất của quê hương đã tham gia tích cực, góp phần làm nên những chiến thắng oai hùng, đánh bại kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc biên giới, lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

Trong tiến trình lịch sử tranh dựng nước và giữ nước Hà Tĩnh luôn là mảnh đất địa linh nhân kiệt, thời nào cũng sinh ra những anh hùng kiệt xuất. Nhân dân Hà Tĩnh cùng nhân dân cả nước đã chung sức chung lòng viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất quốc gia, dân tộc, nhân dân Hà Tĩnh đã làm sáng ngời truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất, kiên cường trước kẻ thù xâm lược. Hà Tĩnh xứng đáng là thành trì vững mạnh của Việt Nam xuyên suốt chiều dài lịch sử.

Trước thềm Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030, tin tưởng rằng, với truyền thống hào hùng, đoàn kết, luôn nỗ lực vượt khó đi lên, tỉnh Hà Tĩnh sẽ gặt hái nhiều thành tựu hơn nữa trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

Đ.Q.H

___________________

1. Trần Viết Thụ (chủ biên), Địa danh lịch sử - văn hóa Nghệ An, Nxb Nghệ An, 2006, tr.218.

2. Nguyễn Hải Kế: Câu hỏi của Lê Lợi năm 1428 và triều đình Lê sơ trong giai đoạn 1428-1459 (Bài học thời hậu chiến), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số tháng 7-2008.

3. Hồng Quang: Mấy ý nghĩ về vấn đề nghiên cứu ý nghĩa và tác dụng lịch sử của Xô viết  Nghệ - Tĩnh, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 35, tháng 2/1962.

. . . . .
Loading the player...