05-08-2025 - 00:43

Đình nguyên Thám hoa Phan Kính

Năm 2025 này, chúng ta cùng hướng về một sự kiện trọng đại: kỷ niệm 310 năm ngày sinh của Đình nguyên Thám hoa Phan Kính (1715 - 1761). Ông không chỉ là một danh nhân xuất chúng với sự nghiệp hiển hách, mà cuộc đời ông còn được tô điểm bằng những giai thoại đẹp và kỳ bí, thể hiện tài năng kiệt xuất, nhân cách cao đẹp cùng với sự cảm phục sâu sắc mà người đời dành cho ông. Tạp chí Hồng Lĩnh số 227 trân trọng giới thiệu bài viết “Đình nguyên Thám hoa Phan Kính” của tác giả Phạm Quang Ái

Năm 2025 này, chúng ta cùng hướng về một sự kiện trọng đại: kỷ niệm 310 năm ngày sinh của Đình nguyên Thám hoa Phan Kính (1715 - 1761). Ông không chỉ là một danh nhân xuất chúng với sự nghiệp hiển hách, mà cuộc đời ông còn được tô điểm bằng những giai thoại đẹp và kỳ bí, thể hiện tài năng kiệt xuất, nhân cách cao đẹp cùng với sự cảm phục sâu sắc mà người đời dành cho ông.

Phan Kính, tự Dĩ Trực, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 11 tháng 11 năm Ất Mùi (tức ngày 06/12/1715 dương lịch) tại thôn Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Giang (La Sơn), trấn Nghệ An, nay thuộc xã Trường Lưu, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh nửa đầu thế kỷ XVIII, một thời kỳ Lê Trung hưng trên danh nghĩa nhưng lại là giai đoạn mà quyền lực thực tế nằm trong tay các chúa Trịnh. Dù vậy, triều đình vẫn có những nỗ lực nhất định trong việc duy trì trật tự xã hội và phát triển giáo dục. Đây cũng là giai đoạn sản sinh ra nhiều danh sĩ, nhà cải cách tài năng, góp phần tạo nên một diện mạo văn hóa, chính trị đặc sắc cho Đại Việt.

Ngay từ thuở nhỏ, Phan Kính đã bộc lộ tư chất thông minh khác người. Ông nổi tiếng là "thần đồng", với trí tuệ sáng láng và lòng ham học hỏi không ngừng. Giai thoại kể rằng, năm Nhâm Dần (1722), khi mới 8 tuổi, bài văn của ông trong kỳ sát hạch đã được xếp thứ nhất. Người cậu ruột của ông, Nguyễn Quỳnh (Giám sinh Quốc Tử Giám), một người có tiếng tăm trong giới học thuật, đã vô cùng ngạc nhiên và tự hào khi xem bài thơ thất ngôn của cháu ca ngợi thời Đường ngu, với những câu thơ đầy khí phách: "Đệ nhất hoa huân thâm hoán tưởng/Khả tam sự nghiệp đốc tư duy…" (Nghĩa là: Nhất lập huân công lòng nổi dậy/Ba kỳ sự nghiệp chí vươn lên). Những vần thơ ấy đã cho thấy tầm vóc tư tưởng và hoài bão lớn lao của một cậu bé, dường như đã dự báo trước một tương lai xán lạn.

Sự thông minh và tài đối đáp của Phan Kính còn được minh chứng qua một giai thoại khác tại kỳ khảo hạch trường huyện La Giang năm Giáp Thìn (1724), khi ông mới 10 tuổi. Giám khảo, một vị quan có tiếng ở phủ Đức Quang (Đức Thọ), thấy Phan Kính bé nhỏ nhưng bài vở lại đạt loại ưu, bèn ra thêm một vế đối khó để thử tài: "La Sơn, Lai Thạch thằng bé lách chách vào hạch trường hương". Ngay lập tức, Phan Kính đã đối lại một cách đầy khí phách và chặt chẽ, không hề nao núng trước uy quyền của người chấm thi: "Nghệ An, Đức Quang, võng lọng nghênh ngang làm quan giám khảo". Khẩu khí tốt, sự nhanh nhạy và tài đối đáp sắc sảo của cậu bé đã khiến quan giám khảo không khỏi thán phục, và ông đã được lấy đỗ hàng đầu trong kỳ thi đó. Đây là một dấu ấn sớm cho thấy tài năng của Phan Kính không chỉ giới hạn trong khuôn khổ sách vở mà còn bộc lộ trong sự ứng biến linh hoạt và tư duy sắc bén.

Mặc dù có tài năng xuất chúng, con đường khoa cử của Phan Kính lại không hoàn toàn suôn sẻ, mà đôi khi cũng gặp không ít thử thách, trắc trở. Năm 1735, Phan Kính đậu Hương cống và mãi đến năm Quý Hợi (1743), ông mới trở lại Thăng Long dự kỳ thi Hội cùng với hơn 2.000 sĩ tử. Trước khi vào thi, ông đã có một hành động đầy quyết tâm, thể hiện ý chí "không thành công không về": khi qua bến đò Phù Thạch ra giữa sông Lam, Phan Kính đã ném một con dao xuống sông mà thề rằng: “Thi hội, thi đình lần này không đỗ, ta quyết không trở về qua đây nữa”. Lời thề ấy không chỉ là sự khẳng định với bản thân mà còn là nguồn động lực mạnh mẽ, thôi thúc ông vượt qua mọi áp lực, dồn hết tâm sức cho kỳ thi quyết định vận mệnh. Một giai thoại khác lại kể rằng, trên đường đến trường thi, vì lòng trắc ẩn, ông đã dừng lại giúp một ông phú hộ đang gặp khó khăn trong việc làm bài văn tế cho người thân qua đời. Chính vì thế mà ông đến nơi bị trễ, cổng trường đã đóng. Tưởng chừng cơ hội đã vuột khỏi tầm tay, nhưng một sự kiện kỳ lạ đã xảy ra, như có sự sắp đặt của định mệnh: đêm đó, trời đổ mưa to gió lớn làm lều chõng của các sĩ tử bị đổ hết, buộc ban giám khảo phải xin phép nhà vua hoãn thi lại hôm sau. Nhà vua đã phê chuẩn lệnh hoãn và đặc biệt hơn, cho phép các trường hợp đến chậm vì lý do chính đáng được vào trường thi. Khi xét đến trường hợp của Phan Kính, chúa Trịnh đã phải thốt lên đầy tiên đoán: “Anh này thế nào cũng đỗ”.

Quả đúng như vậy, tài năng và sự may mắn đã mỉm cười với Phan Kính. Ông đã đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa), là học vị cao nhất của khoa thi năm Quý Hợi (1743) do triều đình không lấy Trạng nguyên, Bảng nhãn. Sau lễ xướng danh và yến tiệc trong cung vua, Phan Kính được vua Cảnh Hưng ban cho áo mũ khôi nguyên, cành hoa bằng vàng, đai lưng bằng bạc khảm đồi mồi, hốt ngà bọc gấm - những vinh dự tột bậc dành cho một tân khoa. Tết Nguyên đán năm Giáp Tý (1744), ông được triều đình cấp ngựa và tiền về quê vinh quy bái tổ. Các văn thân người huyện La Sơn đang tại chức ở triều đình đã đến tiễn chân, và bản huyện đã có bức trướng bằng lụa mừng do Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm (thân sinh Đại thi hào Nguyễn Du) soạn. Bức trướng ấy không chỉ là lời chúc mừng mà còn là sự thừa nhận tài năng xuất chúng của ông: “…Tài hoa rực rỡ, danh tiếng lẫy lừng, văn chương càng viết càng hay như thu gom châu ngọc, lý thú diệu kỳ, dùi mài đẽo gọt càng lắm công phu…!”. Những lời ngợi ca này đã khắc sâu hình ảnh một Thám hoa tài hoa, trí tuệ vào lòng người đương thời.

Từ đó, con đường hoạn lộ của Phan Kính rộng mở và thăng tiến nhanh chóng. Năm Giáp Tý (1744), ông được sắc phong giữ chức Hàn lâm viện đãi chế, chuyên việc cung phụng từ lệnh ở bên vua, tham gia vào các công việc soạn thảo văn bản triều đình quan trọng. Sau đó, ông liên tục được giao phó nhiều trọng trách quan trọng, cho thấy sự tín nhiệm tuyệt đối của triều đình đối với tài năng và khả năng quán xuyến công việc của ông. Ông làm Tuyên úy Phó sứ kinh lý trấn Nghệ An, đi khảo sát tình hình dân chúng và địa phương, nắm bắt nguyện vọng của nhân dân; làm Giám khảo kỳ thi hương - một công việc đòi hỏi sự công tâm, kiến thức uyên bác và khả năng nhìn người để chọn được nhân tài cho đất nước; làm Hiệp đồng trấn Sơn Tây, tham gia vào việc quản lý, điều hành quân sự và dân sự ở một vùng trọng yếu. Đến đầu năm Nhâm Thân (1752), vua giáng chiếu thăng Phan Kính hàm "Đông các đại học sĩ" - một học hàm cao quý, và lần lượt điều đi nhận chức Đốc đồng trấn thủ sự vụ xứ Thanh Hóa, Thự đốc thị Nghệ An, Đốc đồng Tuyên Quang kiêm thừa Chánh sứ, Kinh lược sứ, Tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hóa - một vùng biên viễn trọng yếu bao gồm các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu và một phần Sơn La ngày nay. Những chức vụ này không chỉ đòi hỏi tài năng quản lý mà còn cần cả sự dũng cảm, mưu lược trong việc bảo vệ biên cương, giữ gìn an ninh trật tự, đảm bảo cuộc sống yên bình cho người dân.

Chính trong thời gian công cán ở miền biên viễn phía Bắc (khoảng năm 1760), tài trí và nhân cách của Phan Kính đã khiến vua Càn Long nhà Thanh vô cùng mến phục. Giai thoại kể rằng, trong một lần đi sứ sang Trung Hoa, Phan Kính đã để lại ấn tượng sâu sắc cho triều đình nhà Thanh bởi sự thông tuệ và bản lĩnh của mình. Ông đã khiến vua Càn Long phải thốt lên lời khen ngợi đặc biệt, gia phong cho ông danh vị "LƯỠNG QUỐC ĐÌNH NGUYÊN THÁM HOA" - một danh hiệu cao quý duy nhất trong sử Việt, và ban tặng một chiếc áo cẩm bào cùng hai bức trướng ghi dòng chữ "Thiên triều đặc tứ Bắc đẩu dĩ Nam nhất nhân nhi dĩ" (Thiên triều đặc biệt ban cho người đứng đầu phương Nam). Danh hiệu này không chỉ khẳng định tài năng vượt trội của Phan Kính được công nhận ở cả hai nước mà còn cho thấy tầm ảnh hưởng của ông đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia, trở thành niềm tự hào chung của dân tộc, là biểu tượng cho trí tuệ và bản lĩnh của người Việt.

Tuy nhiên, cuộc đời cống hiến không ngừng nghỉ đã vắt kiệt sức lực của vị Thám hoa đầy tài năng này. Do làm việc quá sức, trải qua nhiều gian lao vất vả lại bị nhiễm lam sơn chướng khí độc hại nơi biên cương, Phan Kính đã qua đời tại nhiệm sở Hưng Hóa ngày 08 tháng 6 năm Tân Tỵ (tức ngày 7-7-1761 dương lịch), thọ 47 tuổi. Sự ra đi của ông là một mất mát lớn. Thi hài ông được rước về kinh đô Thăng Long. Chúa Trịnh Doanh mến phục tài năng và đức độ của ông đã cấp lễ vật, tử tuất rất trọng hậu và tự tay đề bức trướng phúng viếng: “LƯỠNG ĐỒ VĂN HỮU VŨ - VẠN LÝ HIỂM VI DI” (Hai đường kiêm văn, võ - Vạn dặm hiểm lại bình). Lời điếu này không chỉ ca ngợi tài kiêm văn võ của ông mà còn thể hiện sự trân trọng đối với những đóng góp to lớn của ông trong việc giữ yên biên cương. Nhà vua cũng ban sắc truy phong chức Hữu thị lang Bộ hình, tước Quỳ dương bá, thụy Trung hiền, và giao cho Bộ lễ cùng binh lính hộ tống linh cữu ông về mai táng tại quê nhà. Đặc biệt, 23 năm sau, đến năm Quý Mão (1783), vua Lê Hiển Tông còn phong sắc tôn công thần Phan Kính làm Thành hoàng, gia phong là “Anh nghị đại vương”. Sắc phong mỹ tự đã ca ngợi: “…Tướng công văn tài đứng hàng đầu nho sĩ, võ lược xếp vào loại tướng giỏi, được trong triều ngoài quận kính trọng, là người có danh vọng cao như sao Bắc Đẩu trong số các bậc sĩ phu ở trời Nam. Chốn miếu đường cũng như nơi chiến địa đều lẫy lừng tiếng thơm, một miền biên thùy phía Bắc đều khen tài lạ. Từng được ban khen vinh hiển. Sống vẻ vang, chết cũng vẻ vang nên cho được hưởng lộc đời đời…”. Những vinh danh ấy là minh chứng rõ nét nhất cho tài năng, đức độ và những đóng góp không thể phủ nhận của Phan Kính đối với triều đại và đất nước.

Về sự nghiệp thơ văn, Phan Kính là người ham khảo luận, thích sáng tác. Ông là một cây bút tài năng, tinh thông cả chữ Hán và chữ Nôm. Tiếc rằng, gia tài văn thơ của ông bị thất lạc nhiều theo thời gian và biến thiên của lịch sử, chỉ còn lại một số ít tác phẩm được lưu truyền đến ngày nay. Các tập sách như "Kinh truyện tự sự", "Sách văn lược cú" và tập thơ "Dĩ trực thi tập" nay đã thất lạc. Hiện chỉ còn lại hai bài văn thi Hội và thi Đình, tấm văn bia từ đường họ Phan và một số bài thơ chữ Hán lưu giữ tại Viện Hán Nôm. Một trong những bài thơ Nôm hiếm hoi còn lại của ông là bài “Dâng cỗ thái lao tế Khổng Tử ở Văn Miếu Quốc Tử giám”, thể hiện tấm lòng tôn kính đối với Khổng Tử, bậc thầy muôn đời của đạo Nho, và quan trọng hơn là khát vọng mãnh liệt về một xã hội thái bình, thịnh trị:

Nhàn việc xa tay tới Vũng Thù,

Động niềm tôn kính vội dâng trâu.

Rừng đào vật mọn đem lòng thực,

Đàn hạnh nền xưa ngỡ đạo mầu.

Dập tắt lửa Tần xoay mối cả,

Vững phù vạc Hán dõi dòng sâu.

Ngưu mao nghĩa sách dù hay thấu,

Hẳn trị thì ung chẳng khác đâu.

Bài thơ này không chỉ bộc lộ sự hiểu biết sâu sắc của Phan Kính về kinh điển Nho gia mà còn chứa đựng tư tưởng chính trị cốt lõi của ông. Hình ảnh "Vũng Thù" và "Đàn hạnh" gợi về nơi Khổng Tử giảng dạy, thể hiện sự ngưỡng mộ đối với đạo lý thánh hiền. Quan trọng hơn, những câu thơ "Dập tắt lửa Tần xoay mối cả / Vững phù vạc Hán dõi dòng sâu" đã khái quát ước mơ lớn của Phan Kính: dẹp bỏ loạn lạc, xây dựng một triều đại vững mạnh như thời Hán, đem lại an bình cho dân chúng. Đây là minh chứng cho tư tưởng chính trị "An dân trị quốc" [(muốn) trị quốc (thì phải) an dân] luôn thường trực trong tâm khảm ông.

Bài thơ chữ Hán 里中社 (Lý trung xã) lại khắc họa bức tranh sinh hoạt làng quê bình dị, nhưng cũng gửi gắm ước vọng sâu xa về việc phát hiện và trọng dụng nhân tài, một yếu tố then chốt cho sự hưng thịnh của đất nước:

湯禹民風重报農,

禮循社祭里中同。

枌榆無改壇場肅,

籩豆生香品物豐。

滿座酢酬娛父老,

當筵分割隱英雄。

年來里孺登真宰,

調鼎餘波遍叟童。

Phiên âm: Lý trung xã

Thang Vũ dân phong trọng báo nông,

Lễ tuần xã tế lý trung đồng.

Phần du vô cải đàn tràng túc,

Biên đậu sinh hương phẩm vật phong.

Mãn toạ tạc thù ngu phụ lão,

Đương diên phân cát ẩn anh hùng.

Niên lai lý nhụ đăng chân tể,

Điều đỉnh dư ba biến tẩu đồng.     

Dịch nghĩa: Nếp dân thời Thang Vũ trọng việc cày cấy tằm tơ/Trong làng đều theo tế lễ xã /Những cây phần, cây du vẫn như cũ, nghiêm túc nơi đàn tràng/Những thứ đồ đựng (cái biên, cái đậu) lễ vật phong phú bốc mùi thơm/Đầy toà mời chuốc vui các bậc già cả/Ngay trong cỗ tiệc chia cắt (chia phần) đã náu ẩn tài anh hùng/Mai ngày trai trẻ trong làng trở nên những bậc quan giỏi/Ơn thừa của việc nấu vạc tới khắp mọi người già trẻ.

Bài thơ này cho thấy Phan Kính không chỉ là một nhà chính trị lo việc quốc gia đại sự mà còn rất gần gũi với đời sống dân dã, thấu hiểu nguyện vọng của nhân dân. Ông đề cao "nếp dân thời Thang Vũ trọng việc cày cấy tằm tơ", thể hiện tư tưởng coi trọng nông nghiệp, lấy dân làm gốc. Đặc biệt, câu "當筵分割隱英雄" - “Đương diên phân cát ẩn anh hùng” (Ngay trong cỗ tiệc chia cắt đã ẩn náu anh hùng) cho thấy nhãn quan sắc bén của ông trong việc nhìn nhận và tìm kiếm nhân tài ngay cả trong những con người bình dị nhất ở chốn làng quê. Câu cuối "調鼎餘波遍叟童"- “Điều đỉnh dư ba biến tẩu đồng” (Ơn thừa của việc nấu vạc tới khắp mọi người già trẻ) thể hiện ước vọng về một xã hội mà mọi người dân, dù già hay trẻ, đều được hưởng lợi từ chính sách "điều đỉnh" (cai trị) của triều đình. Điều này càng khẳng định tư tưởng chính trị "an dân trị quốc" trên nền tảng "đại trung chí chính" (Rất mực trung hòa, cực kỳ chính trực) của Phan Kính. Thơ ông thuộc loại trữ tình chính trị trong dòng thơ chính luận, thể hiện rõ khát khao phụng sự đất nước, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Cuộc đời và sự nghiệp của Phan Kính là một minh chứng sống động cho tinh thần "Sĩ khả bách vi" - kẻ sĩ có thể đảm đương, hoàn thành bất cứ công việc gì quốc gia cần đến. Ông là một danh nhân lỗi lạc, tấm gương về nghị lực phi thường, trí tuệ uyên bác và tinh thần cống hiến không mệt mỏi. Di sản ông để lại không chỉ là những trang sử vàng chói lọi mà còn là tấm gương sáng về đạo đức, tài năng và lòng yêu nước vĩ đại.

Để tưởng nhớ và tôn vinh những đóng góp to lớn của Phan Kính, năm 1992, nhà thờ ông tại xã Song Lộc đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia. Tên ông được đặt cho đường phố ở thành phố Vinh (Nghệ An), thị xã Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh) và là tên trường tiểu học của xã Song Lộc, Can Lộc, thể hiện sự ghi nhận của các thế hệ. Ngoài quê hương Hà Tĩnh, nhiều địa phương khác cũng lập đền, miếu thờ Phan Kính. Đặc biệt, tại xóm Cầu, xã Khánh Thiện, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, có một ngôi đền thờ Ngài quan Thám hoa Phan Kính đã tồn tại hàng trăm năm và được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Năm 2017, ông Nguyễn Đăng Thành, Phó Chủ tịch thường trực Hội doanh nhân Cựu chiến binh tỉnh Ninh Bình, một người con quê xã Khánh Thiện, đã phát tâm công đức kêu gọi bạn bè, con em đồng hương xây dựng lại Đền thờ quan Thám hoa, danh nhân nổi tiếng của quê hương Hà Tĩnh, với tổng số tiền gần 2 tỷ đồng. Đến tháng 3 năm 2021, tiếp tục huy động công đức để đúc tượng đồng cho cụ, thể hiện tấm lòng tôn kính và tri ân sâu sắc.

Tại quê nhà, con cháu dòng họ Phan Vĩnh Gia cùng bà con đồng tộc Phan cũng có nhiều hoạt động ý nghĩa để gìn giữ, phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia này. Ông Phan Bình, Chủ tịch Hội đồng gia tộc Phan Vĩnh Gia, là người vô cùng tâm huyết với việc họ. Ngoài tâm huyết và công sức, ông từng bỏ ra hàng trăm triệu đồng để lo cho việc tôn tạo, chỉnh trang đền thờ, nhà truyền thống. Mới đây, trong điều kiện ngân sách Nhà nước đầu tư còn hạn hẹp, ông bàn với con cháu và quyết định dành 1 tỷ đồng từ tiền bán nhà để lo việc xây thêm một số hạng mục của Đền thờ cụ Tổ Phan Kính, thể hiện tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc đối với tiền nhân. Cuối tháng 6 năm 2021, UBND huyện Can Lộc đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và dòng họ Phan Vĩnh Gia tổ chức long trọng lễ kỷ niệm 260 năm ngày mất của danh nhân Lưỡng quốc Đình nguyên Thám hoa Phan Kính. Đây là dịp để khẳng định lại vị thế của ông, một người con Hà Tĩnh nổi tiếng về tinh thần hiếu học, tài học, một nhà thơ chính luận đặc sắc, một vị quan với đức sáng liêm chính, công bình, đã có những cống hiến to lớn cho đất nước.       Năm 2015, tại xã Song Lộc, UBND huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) và con cháu dòng họ Phan Vĩnh Gia tổ chức Lễ kỷ niệm 300 năm ngày sinh danh nhân Phan Kính (1715 - 1761) một cách long trọng.

Kỷ niệm 310 năm ngày sinh của Lưỡng quốc Thám hoa Phan Kính vào năm 2025 không chỉ là một sự kiện lịch sử, mà còn là lời nhắc nhở trân trọng cho các thế hệ mai sau về trách nhiệm gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp mà cha ông đã dày công vun đắp. Tinh thần hiếu học, nghị lực phi thường, trí tuệ uyên bác và lòng yêu nước cháy bỏng của Phan Kính sẽ mãi là ngọn lửa soi sáng con đường phát triển của đất nước, thúc đẩy tinh thần học tập, rèn luyện và cống hiến vì một Việt Nam hùng cường và thịnh vượng, xứng đáng với tầm vóc của các bậc tiền nhân.

P.Q.A

. . . . .
Loading the player...