Tạp chí Hồng Lĩnh số xuân Ất Tỵ 2025 (221+222) trân trọng giới thiệu bài viết “Cố Chủ tịch Trần Quang Đạt và những kỷ niệm sâu sắc với cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý” của tác giả Phạm Quang Ái
Cố Chủ tịch Trần Quang Đạt (1927 – 2007), người hai lần được bầu làm Chủ tịch tỉnh - Chủ tịch UBHC tỉnh Hà Tĩnh (1972-1976) và Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ Tĩnh (1979-1983) - là một chính khách nổi tiếng không chỉ ở xứ Nghệ, nổi tiếng không chỉ vì có nhiều “chính tích” tốt đẹp mà còn vì rất nhiều giai thoại lý thú về sự ứng xử thông minh và có tầm vóc văn hoá của ông. Trong hồi ký của cố Chủ tịch Trần Quang Đạt, có một số tư liệu, tuy không nhiều nhưng rất quan trọng, nói về kỷ niệm sâu sắc của ông với trí thức, văn nghệ sĩ. Về quan điểm, thái độ, tấm lòng đối với văn nghệ sĩ, ông gói gọn trong một lời tâm sự giản dị: “Tôi rất quý trọng anh em văn nghệ sĩ” và kể lại những “pha” ứng xử rất văn hoá, rất thấu tình đạt lý giữa ông với họ.
Có rất nhiều câu chuyện cảm động thể hiện trách nhiệm, ân tình của Cố Chủ tịch Trần Quang Đạt đối với trí thức, văn nghệ sĩ. Nhưng cảm động nhất vẫn là việc ông, lúc bấy giờ đang là Chủ tịch UBHC tỉnh Hà Tĩnh, chịu trách nhiệm điều hành trăm công ngàn việc của một địa phương vừa trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt và đang bước vào một thời kỳ xây dựng đất nước cực kỳ sôi động và cũng rất phức tạp, đã bỏ ra nhiều ngày để trực tiếp “phục vụ” nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý (1924 -2019) sáng tác được những “bài hát đi cùng năm tháng” về quê hương xứ sở như các bài “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh” và bài “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ”, những bài hát mà đến nay nếu không có chúng thì quê hương núi Hồng sông La có lẽ sẽ không được nổi tiếng như vậy. Ông không chỉ tạo mọi điều kiện vật chất cho vị nhạc sĩ tài danh đi thực tế mà với những hiểu biết sâu sắc truyền thống lịch sử - văn hoá cũng như thực tiễn địa phương lúc bấy giờ, đã phân tích, góp ý tận tình để nhạc sỹ cảm nhận được thấu đáo hiện thực cuộc sống; thậm chí, với ít nhiều tư chất nghệ sĩ, ông còn thẳng thắn góp ý cho nhạc sỹ về ca từ. Rõ ràng, nếu không có sự tận tâm của cố Chủ tịch Trần Quang Đạt thì chắc chắn quê hương Hà Tĩnh đã không có được những nhạc phẩm nổi tiếng nói trên. Nhưng cũng vì sự tận tâm đó mà ông đã bị một số đồng chí trong ban lãnh đạo UBND tỉnh lúc bấy giờ đưa ra chất vấn, kiểm điểm ông rằng: “Chủ tịch tỉnh mà không lo làm kinh tế lại đi lo văn nghệ”. Ông đã phản bác lại đồng sự, đồng chí để bảo vệ quan điểm của mình: “Kinh tế đã có tập thể lãnh đạo Uỷ ban lo, tất nhiên Chủ tịch cũng phải lo, nhưng văn nghệ thì dù ta cố gắng mấy cũng không sáng tác được.”
Đêm nhạc "Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - Khúc tâm tình còn mãi". Ảnh: PV
Việc tạo điều kiện thuận lợi để Cố Nhạc sĩ Nguyền Văn Tý sáng tác hai nhạc phẩm để đời là “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh” và “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ”, được Cố Chủ tịch Trần Quang kể lại trong hồi ký như sau: “... Khi thấy tôi tỏ ra ưu ái với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, thì hai Phó Chủ tịch đã kiểm điểm tôi rằng là không lo làm kinh tế lại đi lo cho văn nghệ. Tôi bảo vệ quan điếm của mình là kinh tế đã có tập thể ủy ban lo, tất nhiên Chủ tịch cũng phải lo nhưng văn nghệ thì dù ta cố gắng mấy cũng không thể sáng tác được. Trong khi đó các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình đều có bài hát của tỉnh mà Hà Tĩnh lại chưa có. Sau đó, qua nhiều lần trao đổi, bàn bạc góp ý, bài “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh” được cuộc sống chấp nhận. Bè bạn yêu cầu phải có phần thưởng xứng đáng cho nhạc sĩ. Tôi đưa vấn đề ra và Ủy ban tỉnh đã quyết định giao cho ngành văn hoá tổ chức khen thưởng. Sau đó, nghe tin Ty Văn hoá không tổ chức lễ trao thưởng mà đã trao tay, tôi bực vô cùng. Nhưng việc đã rồi, tôi phải gặp nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý động viên, thông cảm và mời anh ở lại chơi. Nể lời tôi, anh ở lại đi thăm công trình Đại thủy nông Kẻ Gỗ. Vào công trường, chứng kiến cuộc sổng sôi nổi, khí thế hăng say lao động, anh quyết định ở lại sáng tác. Bài hát mà anh khởi thảo sáng tác đầu tiên có nhan đề là “Em đi làm thuỷ lợi”, nghe xong tôi đã không đồng tình với nhan đề bài hát cũng như một số chi tiết trong ca từ. Tôi trao đổi với anh về câu hát mở đầu và cũng là tên bài hát là “Em đi làm thủy lợi” sẽ lặp lại tên bài hát “Em đi làm tín dụng” mà anh đã sáng tác từ năm 1971. Anh Tý do dự. Sau đó, khi nghe mấy bài thơ về Kẻ Gỗ, anh xóa bản thảo cũ, sáng tác bài mới với nhan đề là “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ”. Bài hát mới được hát lên để nhiều người cùng nghe thử, số đông rất đồng tình nhưng anh Xuyên Hải, Phó Văn phòng Ủy ban tỉnh nhận xét là thiếu không khí Xô-Viết, anh Tý chấp thuận và phải mất mấy ngày để sửa chữa, bổ sung mới. Đó là những câu như: “Nghệ Tĩnh mình ơi Sông Lam rọi núi Hồng/ Bạn về theo bạn đào núi ngăn sông/ Đất trời như vẫn vang vang lời trống giục,…”. Và bài hát ấy đã đáp ứng mong đợi của bao người.”[1]
Sau này, khi đã cao tuổi, bồi hồi nhớ lại những năm tháng ấy, cố nhạc sĩ đã kể lại: “Tôi nhớ lúc đó ông Trần Quang Đạt, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh, mời tôi đến thăm công trình hồ Kẻ Gỗ. Dù lúc đó cũng bận rộn công việc nhưng tôi sắp xếp đi ngay” - nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý nhớ lại và cho biết lúc đó ông 51 tuổi, cùng gắn bó với hàng vạn con người làm hồ Kẻ Gỗ trong một tháng trời. Chính từ sự thấu hiểu, cảm phục sức người phá đá đào sỏi, nhạc sĩ đã viết “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ” với những ca từ vừa đẹp đẽ vừa mạnh mẽ.
“Để có cảm hứng sáng tác, ban ngày nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý quan sát công trình, tối đến cùng anh em trong đoàn văn công trải chiếu ngủ ngay dưới thềm một ngôi chùa. Chủ tịch tỉnh đến thăm, thấy chỗ ngủ không được tốt thì bảo ông ra nghỉ khách sạn nhưng ông từ chối vì ông thấy thích ở đây hơn bởi được gần gũi mọi người, được hiểu hơn về việc xây hồ Kẻ Gỗ, về cuộc sống sinh hoạt của bà con nông dân... Theo như bộc bạch của ông, ca từ bài hát phải sát với thực tế của mảnh đất, con người nơi đây mới dễ đi vào lòng người. Đến giờ, dù tuổi tác sắp phản bội trí nhớ nhưng ông vẫn nhớ như in cảnh vật ngày ấy: “Họ đi thành từng đoàn, từng tốp, cùng nhau làm việc, nói cười. Nhiều cảnh tượng làm tôi xúc động, nhất là trên công trường nắng chang chang họ luôn tranh thủ làm việc để việc xây hồ hoàn thành đúng hạn”. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý cho biết trong đời ông, đó là lần đầu tiên chứng kiến sức người được huy động tối đa cho một công trình xây dựng có ý nghĩa to lớn như thế…”[2]
Từ mối quan hệ tri âm giữa Cố Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý với Cố Chủ tịch Trần Quang Đạt, sau này, khi ông Trần Quang Đạt đã quá cố, các thế hệ lãnh đạo Hà Tĩnh vẫn tiếp tục quan tâm sâu sắc đến cuộc sống và sự nghiệp của cố nhạc sĩ. Đặc biệt vào giai đoạn sau này, cuộc sống của cố nhạc sĩ gặp nhiều khó khắn, vì vậy, trong hơn 10 năm cuối đời, “…Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh thống nhất chủ trương mỗi tháng trợ cấp cho nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý 5 triệu đồng để an dưỡng tuổi già. Hàng năm lãnh đạo tỉnh đều cử người vào thăm sức khỏe và trao quà động viên nhạc sĩ…”[3] và lúc ông tạ thế, lãnh đạo tỉnh đã cử người vào thành phố Hồ Chí Minh viếng ông.
Sinh thời, từ thực tiễn hoạt động cách mạng, từ cái tâm lớn với đời, từ cái tầm cao xa của nhận thức, cố Chủ tịch Trần Quang Đạt đã thấm nhuần từ trong máu thịt rằng, trí thức, văn nghệ sĩ là tài sản vô cùng quý giá của quốc gia, dân tộc, nên phải có sự biệt đãi xứng đáng để họ có thể cống hiến được nhiều nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn thế, trí thức, văn nghệ sĩ là những người có tâm hồn, cốt cách đặc biệt, họ rất nhạy cảm nên cũng rất dễ bị tổn thương tâm lý, tư tưởng. Vì thế, đối đãi với họ phải rất thành tâm và tế nhị, phải ứng xử thấu tình đạt lý thì mới làm họ tâm phục và khơi được nguồn sáng tạo mạnh mẽ ở họ. Nếu chỉ dùng quyền thế, mệnh lệnh một cách cứng nhắc thì dễ làm thui chột nhân tài, thậm chí khiến họ bất mãn, quay ra chống đối, hoặc phản ứng tiêu cực, gây bất lợi cho xã hội. Quan điểm chính trị thấm đẫm chất nhân văn và tấm lòng tử tế nói trên của cố Chủ tịch Trần Quang Đạt đối với trí thức, văn nghệ sĩ tuy không được ông phát biểu trực tiếp nhưng thể hiện đậm nét trong những mẩu chuyện ứng xử của ông đối với họ.
Cố Chủ tịch Trần Quang Đạt không chỉ đối đãi với trí thức, văn nghệ sĩ với tư cách là một chính khách có tầm văn hoá mà còn rất “cận nhân tình” với họ ở tư cách một người am hiểu văn chương và có tâm hồn nghệ sĩ. Ông đọc khá nhiều tác phẩm văn học, nhất là các tác phẩm văn học dịch như Người mẹ, Thép đã tôi thế đấy, Sông Đông êm đềm, Đội cận vệ thanh niên, Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn, Rừng thẳm tuyết dày, Tam quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc, Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức Bà Paris, Ruồi trâu, Thơ Maiacopxki, Thơ Puskin, Thơ Đường,.. Ông còn biết làm thơ, về già còn tập làm thơ Đường luật để xướng họa với bạn bè và giải bày tâm sự. Thời chiến tranh chống Mỹ, khi giữ chức vụ Phó Chủ tịch UBHC tỉnh kiêm Trưởng Ban Đảm bảo giao thông, ông đã làm thơ về các cô thanh niên xung phong đập đá vá đường. Bài thơ khá hay và đã gợi hứng cho nhạc sỹ Ánh Dương sáng tác nên nhạc phẩm nổi tiếng Chào em cô gái Lam Hồng. Thời hoạt động sôi nổi nhất của ông Trần Quang Đạt, từ trung ương cho đến địa phương, có nhiều cán bộ lãnh đạo biết sáng tác văn chương và am hiểu sâu sắc hoạt động văn nghệ. Họ sáng tác hay phê bình văn nghệ đều vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và để có điều kiện thuận lợi nhất cho việc lãnh đạo tốt công tác văn nghệ phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến kiến quốc.
Không ai trong các chính khách thời ấy, lấy việc sáng tác văn nghệ hoặc việc gần gũi, hiểu biết hoạt động văn nghệ và văn nghệ sĩ, trí thức để làm sang cho bản thân, để đánh bóng bản thân mình. Dường như, những cán bộ chân chính nhất thời đó đều thấu hiểu rằng, chính từ văn nghệ và thông qua những ý kiến phản biện của trí thức, văn nghệ sĩ, chính trị sẽ có “kênh” tốt nhất để có thể tiếp cận sâu sắc thực tiễn sinh động cuộc sống, góp phần quan trọng cho sự ra đời những chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử - văn hóa cụ thể của xã hội. Mọi so sánh đều khập khiễng nhưng mối quan hệ cao đẹp của Cố Chủ tịch Trần Quang Đạt đối với trí thức văn nghệ sĩ nói chung và Cố Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý nói riêng, ở một mức độ thấp hơn, có thể ví như mối quan hệ giữa lãnh tụ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết là Vladimir Ilyich Lenin (1870 - 1924) với văn hào Maksim Gorky (1868 - 1936).
Ngày nay, một số người có thể cho rằng, giá trị của các di sản văn nghệ thời trước đổi mới, bây giờ đã bộc lộ giới hạn, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng, văn nghệ thời đó đã xứng tầm với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta. Sự khai phóng để trí thức, văn nghệ sĩ trong và ngoài tỉnh thời đó vươn lên phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, có công lao và tâm đức không nhỏ của những chính khách như cố Chủ tịch Trần Quang Đạt.
P.Q.A
_______________
1. Ninh Viết Giao – Phạm Quang Ái – Nguyễn Thanh Tùng, Trần Quang Đạt một thời để nhớ, Nxb Nghệ An, 2011, tr. 139;
2. https://tuoitre.vn/bai-hat-mot-thoi-cua-nguyen-van-ty-1263568.htm
3.https://baohatinh.vn/nhac-si-nguyen-van-ty-ha-tinh-oi-sau-nang-an-tinh-post184611.html