Tạp chí Hồng Lĩnh số Tết Ất Tỵ 2025 (221+222) trân trọng giới thiệu Bài thơ “Chiếc lá” của Phạm Xuân Nguyên
Bài thơ “Chiếc lá”
PHẠM XUÂN NGUYÊN
Thơ thơ là tập thơ đầu tay của Xuân Diệu xuất bản năm 1938. Tập đó có 46 bài. Trong 46 bài đó có bài thứ 30 nhan đề “Chiếc lá” Xuân Diệu ghi “Theo Arnault”. Lâu nay ít người để ý đến lời ghi chú này và cứ mặc nhiên coi đây là một trong các bài thơ của Xuân Diệu sáng tác. Chỉ mãi gần đây nhờ có mạng Internet tôi mới thử gõ tên “Arnault” cùng từ “Feuille” thì tìm được bản gốc bài thơ.
Arnault là nhà viết kịch Pháp, có tên đầy đủ là Antoine Vincent Arnault (1766 – 1834). Bài thơ “La Feuille” của Arnault không biết Xuân Diệu đọc ở đâu nhưng chắc là thích nên ông đã dịch và đưa ngay vào tập thơ đầu của mình ngang như một bài thơ viết.
Nguyên tác bài thơ:
LA FEUILLE
De ta tige détachée,
Pauvre feuille desséchée,
Où vas-tu ? - Je n’en sais rien.
L’orage a brisé le chêne
Qui seul était mon soutien.
De son inconstante haleine
Le zéphyr ou l’aquilon
Depuis ce jour me promène
De la forêt à la plaine,
De la montagne au vallon.
Je vais ou le vent me mène,
Sans me plaindre ou m’effrayer :
Je vais où va toute chose,
Où va la feuille de rose
Et la feuille de laurier.
(Dịch nghĩa: Từ khi bị bứt khỏi thân cây,/ Chiếc lá tội nghiệp ơi mày đã héo khô,/ Mày đi đâu? – tôi chẳng biết./ Cơn bão đã bẻ gãy cây sồi/ Chỗ nâng đỡ duy nhất của tôi./ Từ đó gió mạnh hay gió nhẹ/ Theo luồng thổi thất thường của nó/ Đều cuốn tôi đi/ Từ rừng sâu đến đồng bằng/ Từ núi cao đến thung lũng./ Tôi đến nơi gió mang tôi đến/ Không than vãn hay sợ hãi:/ Tôi đến nơi mọi vật đến,/ Nơi lá hồng/ Và lá nguyệt quế đến.)
Và đây là bản dịch của Xuân Diệu:
CHIẾC LÁ
(Theo Arnault)
Lìa cành, thân héo khô,
Hỡi chiếc lá giang hồ,
Đi đâu?
– Tôi chẳng biết.
Xưa ở cành cây thông:
Bão đánh, cây gần chết.
Chiều thổi đổi không cùng,
Gió thoảng hay gió mau
Từ hôm ấy, mặc lòng
Đưa tôi rừng tới đồng,
Núi trước tới lũng sau.
Tôi đi nơi gió lồng,
Không than cũng không nao;
Tôi đến nơi bờ đến
Lá hồng cùng lá đào.
Bản dịch của Xuân Diệu theo sát bản gốc về ý và về thể thơ. Chỉ có ba chỗ khác: thêm định ngữ “giang hồ” cho chiếc lá để nói về sự phiêu dạt của nó theo gió cuốn khi lìa cành. Thay lá nguyệt quế bằng lá đào. Và dịch “tôi đến nơi mọi vật đến” thành “tôi đến nơi bờ đến” với nghĩa mọi vật rồi đều phải tới bờ tới bến cuối cùng của một kiếp sinh tử.
Xuân Diệu đã đặt bài thơ dịch này vào cùng các bài thơ sáng tác của ông trong tập thơ đầu tay “Thơ thơ”. Người đọc lâu nay không để ý. May là ông có ghi chú dưới tên bài để người đọc biết đó là bài thơ ông dịch chứ không phải làm.
Rộng ra, Xuân Diệu chịu ảnh hưởng thơ Pháp là điều đã rõ, và chính nhà thơ cũng đã nhiều lần thừa nhận. Ông không giấu sự vay mượn thơ Pháp vào thơ mình.
Từ một câu thơ dịch sát:
Plus d”une espèce de fleurs a quitté les branches
(Hơn một loài hoa đã rụng cành)
Từ một câu nói của Alfred de Musset với George Sand: Dépêche-toi, George, notre amour est vieux (Nhanh lên em, George, tình ta đã già rồi), thành cảm hứng giục giã:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non đã già rồi...
Và rõ nhất là bài “Yêu” được biến tấu và sáng tạo từ bài “Rondel de l’adieu » của Edmond Haraucourt với câu đầu từ tiếng Pháp Partir, c’est mourir un peu (Đi là chết mất đi một ít) thành câu đầu trong tiếng Việt “Yêu là chết ở trong lòng một ít”. Xuân Diệu còn cho biết câu “Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu” trong bài thơ “Yêu” là ông dựa ý câu thơ trong bài Sonnet nổi tiếng của Félix Arvers (1806-1850): N’osant rien demander et n’ayant rien reçu (Không dám xin và cũng không nhận gì”). Với ai chưa biết bài thơ Sonnet của F. Arvers này tôi xin mách là nó đã được nhà văn Khái Hưng dịch ra tiếng Việt bằng thể lục bát rất hay.
Năm 2025 là tròn 40 năm mất nhà thơ Xuân Diệu. Ông đã để lại cho thơ Việt Nam hiện đại những bài thơ nổi tiếng, nhất là ở thời kỳ Thơ Mới. Góp phần cho thành công ấy của thơ ông có sự học tập và tiếp thu tinh hoa thơ Pháp.
P.X.N