Tạp chí Hồng Lĩnh số Tết Ất Tỵ 2025 (221+222) trân trọng giới thiệu Truyện ngắn CÁNH HOA TRONG GIÓ của Phan Thế Dũng Toàn
CÁNH HOA TRONG GIÓ
Truyện ngắn
PHAN THẾ DŨNG TOÀN
1. Chiều 30 Tết. Vợ chồng tôi đang tất bật làm lễ cúng tất niên thì o tới. Trông o đã già, mái tóc vương nhiều sương gió, song nước da vẫn hồng hào. O có vẻ đẫy đà ra. O nói: “Tự nhiên o nhớ mẹ các cháu quá. O về ngoại, ghé qua thắp cho chị nén hương rồi phải về ngay”. “Lâu lắm rồi o không về cúng tất niên. O ở lại với gia đình cháu. Có o, chắc mẹ cháu sẽ vui lắm đấy!”- Tôi nói. “Cháu cứ làm việc của cháu đi. O cũng phải làm mâm cúng tất niên ở nhà mình nữa. Khi nào rãnh, o lại đến”.
O đến rồi đi như một ngọn gió.
Những ngày Tết công việc bận rộn, tôi cũng không có nhiều thời gian nghĩ về o. Sau ba ngày Tết, tự nhiên tôi lại nhớ đến o.
2. O xuất ngũ năm 1978, sau thống nhất ba năm. Năm đó tôi vừa vào lớp một. O khoác ba lô về nhà vào một buổi chiều mùa đông. O vốn dáng cao, nên thằng bé 7 tuổi là tôi trông o như một người đàn ông, chững chạc, oai vệ, rắn rỏi. O nhìn cha, rồi ôm mẹ, rơm rớm nước mắt. Trông thấy lũ trẻ chúng tôi, o mở ba lô lấy gói kẹo chia cho mỗi đứa ba cái. Ngày đó, kẹo là thứ xa xỉ, chúng tôi chẳng mấy khi được ăn. Tôi cầm cái kẹo o cho, một cái bỏ vào miệng, tận hưởng vị thơm ngọt cứ thấm dần vào cơ thể, còn hai cái cầm chắc trong tay, chạy một mạch về nhà mình để đưa cho mẹ và em gái. Nhà tôi cách nhà o khoảng 500m, chạy về đến nhà kẹo chưa kịp tan, vị ngọt thơm của nó thì vương vấn tôi đến mãi sau này.
Tôi đưa kẹo cho em gái, nói với cha đang ngồi đan rổ trước sân nhà: “O Đào về rồi cha”. Cha tôi dừng tay đan, hỏi: “Về từ khi nào?”. Tôi kể hết mọi chuyện, từ câu nói của ông chú đến giọt nước mắt của bà mự. Cha tôi bảo: “O về lành lặn là mừng rồi”. Chắc lúc nói câu đó, cha đang nghĩ về thương tật của mình. Năm 1974, cha tôi bị thương nặng ở chiến trường, cha phải nằm qua nhiều bệnh viện, đến năm 1976 cha xin về nhà tự chăm sóc. Vết thương của cha tôi khá nặng nên không còn làm được việc đồng áng. Cha giỏi đan lát, đan những chiếc rổ, những chiếc thúng mủng rất đẹp, có khi làm không kịp bán cho dân làng.
Cha tôi và o là anh em con chú con bác. Cha tôi con bác cả. Bố của o là em thứ tư của ông nội tôi, kế sau hai em gái khác của ông tôi đã đi lấy chồng ở làng xa. Ông bà tôi khuất núi đã lâu, nhà chỉ có mình cha tôi. Nhà tôi đơn người nên khi cha tôi đi bộ đội, o thường sang giúp. O thân thiết với mẹ tôi lắm. Nghe tôi kể chuyện o về, mẹ định sang ngay, nhưng cha bảo để o nghỉ ngơi lại sức lúc khác sang. Vừa nhắc đến liền thấy o tới. Mẹ tôi bảo: “Anh chị đang định sang o chơi!”. O hỏi mẹ tôi về công việc và bệnh tình của cha tôi. Mẹ tôi nói: “Nắng gió trở trời lại đau, anh tự chịu đựng, mẹ con chị cũng chẳng giúp đỡ được gì!”. Cha tôi ngừng đan lát, nói với o: “May là có chị em đỡ đần, anh cũng cố vượt qua được”. Mẹ tôi cầm tay o, tha thiết: “Cũng chán tuổi đầu rồi đấy, lần này về tính chuyện lấy chồng đi nhé”. O nhìn mẹ tôi rồi liếc sang cha tôi, cười: “Sau này lấy chồng em sẽ tìm người như anh, vừa hiền lành, đẹp trai lại giỏi giang. Nhưng em còn phải tìm việc làm đã. Em nghĩ mình không đủ sức để làm nông nghiệp được”. Cha tôi ngừng tay, nhìn o, giọng nghiêm túc: “Anh sẽ giới thiệu cho em một người, là đồng đội cũ của anh, mãi chiến đấu quên chuyện lập gia đình. Anh ta vừa biên thư về cho anh, nói rằng đợt nghỉ phép tới đây sẽ đến thăm anh. Nhất định anh sẽ giới thiệu với em!”. O cười ửng hồng đôi má.
O xin được việc làm tại công ty Mây tre đan xuất khẩu đóng trên địa bàn huyện. Thi thoảng sau giờ làm o có ghé tạt qua nhà tôi trước khi về nhà mình.
Cuối mùa xuân cha tôi phải vào bệnh viện huyện. Bệnh viện huyện không điều trị được bệnh tình của cha, cha chuyển sang viện quân khu. Không biết khi nghỉ phép chú ấy có đến thăm cha tôi hay không, nhưng không thấy về nhà tôi. Mẹ tôi phải bỏ giở việc đồng áng đi chăm sóc chồng. Mấy anh chị em tôi ở nhà tự chăm sóc nhau. Anh cả chị hai tôi sau những buổi học còn phải đi làm đồng áng để lấy thêm công điểm cho mẹ. Những ngày đó, cũng nhờ o sang giúp, anh chị em tôi mới vượt qua được những khó khăn. Đến Tết cha được về. Cha về là chúng tôi vui, Tết chưa đến nhưng ngày nào cũng vui như Tết. Nhà chúng tôi luôn rộn ràng khách bà con họ hàng làng xóm, nhất là các buổi tối. Ra Tết cha lại nhập viện. Lần đó cha đã không qua khỏi, bệnh viện trả cha về với chúng tôi, mấy ngày sau, cha tôi ra đi.
Hôm cha tôi mất, o xin nghỉ việc ở cơ quan, ở luôn nhà tôi để phụ lo chuyện tang lễ. Sáng hôm sau, trước khi đưa cha ra nghĩa trang, có một chú bộ đội về nhà tôi. Cất ba lô vào một góc nhà, chú xắn tay vào mọi việc.
Hôm ấy mưa xuân lất phất. Lúc khiêng cha tôi ra xe tang, hoa xoan vương đầy trên áo quan. Sau đám tang, chú bộ đội nói với mẹ tôi: “Có lẽ chiều nay em phải đi. Em cũng không xin nghỉ được nhiều”. Lúc đó, o liền nói: “Thì anh cũng phải ở đến ba ngày của anh ấy đã chứ?”. Chú ấy bảo: “Tôi cũng muốn thế, nhưng tôi không xin nghỉ được nhiều. Tôi còn ghé về thăm nhà!”. O định nói thêm điều gì, nhưng lại không nói.
Sang chiều chú bộ đội từ biệt gia đình chúng tôi. Bữa đó mưa xuân vẫn bay bay, hoa xoan rụng đầy lối ngõ. Tôi vô tình thấy o Đào đứng ngoài sân, o cứ đi vào đi ra. Đôi mắt o nhìn chăm chăm vào dấu giày hằn lên những đám hoa xoan, rồi hướng mắt nhìn theo bóng người đi, ánh nhìn tao tác.
Mãi sau này tôi mới được biết chú bộ đội ấy chính là người mà cha tôi từng muốn giới thiệu với o, nhưng có vẻ như cha chỉ mới nói với o mà chưa kịp nói với chú ấy.
3. O đã chạm ngõ tuổi 30. Cái tuổi này ở làng quê coi như là ế. Bạn bè của o đã con bồng con bế. Tôi đã học lên cấp hai. Có hôm đi học về thấy bọn trẻ nít núp trong lùm cây hát vang khi thấy o đạp xe đi làm về: “Tùng rinh ring ba mươi tuổi chưa chộ (thấy) ai rinh Đào đi”. Tôi đuổi đánh bọn trẻ, bắt được mấy đứa hỏi ai bày cho chúng mày hát thế, chúng nó bảo nghe người lớn rồi hát theo. Tôi bắt chúng hứa từ nay không được hát thế trước mặt o.
Ngày chủ nhật không làm việc ở cơ quan, o lại đến nhà tôi chơi và đỡ đần giúp đỡ mẹ con tôi một số việc vặt. O và mẹ tôi cứ thủ thỉ thù thì nhiều chuyện. Có lần tôi nghe mẹ tôi nói với o: “Đến cái tuổi này em đừng kén cá chọn canh nữa. Ai có lòng đến với mình thì mình cứ lấy đi một người. Đời người con gái không lấy chồng cơ cực lắm. Lời đàm tiếu của mọi người về o cũng làm chị đau lòng!”. O cười gượng gạo, nói với mẹ tôi: “Chị đừng lo cho em. Em đi xem bói người ta bảo số em lấy chồng muộn. Có khi lấy giám đốc không chừng”. Mẹ tôi tròn mắt nhìn o: “Em cứ viễn vông. Chuyện này nói với chị chứ tuyệt không được nói với người khác, người ta cười cho!”. O không cười nữa, mà nói: “Em nói thật mà. Chị không tin em sao?”.
Đó không phải lần đầu tiên tôi nghe o nói chuyện mình sẽ lấy giám đốc. Chúng tôi thường cười thầm vì ý nghĩ đó của o. Ngày trước nói đến chuyện lấy giám đốc là một chuyện động trời, người bình thường không ai dám nói như thế. Ở cả cái huyện chúng tôi chỉ có hai công ty xí nghiệp nhà nước và dĩ nhiên chỉ có hai ông giám đốc, ông nào cũng lớn tuổi và có gia đình đề huề. Chúng tôi lớn lên trong gia đình nghèo khó, mỗi lần đi qua nhà ông giám đốc gần thị trấn, chúng tôi vẫn thường nhìn vô đầy sự ngưỡng mộ. Tôi chưa gặp một ông giám đốc nào, nhưng chỉ nghe người lớn nói với nhau chuyện này chuyện kia chỉ may ra giám đốc mới có, nên trong đầu cứ hình dung giám đốc phải là người oai phong bệ vệ, sáng láng đầy hào quang. Nghĩ thế nên tôi cũng tin như lời mẹ tôi, o chỉ viễn vông thôi.
Trong lúc o chưa gặp được ông giám đốc nào đến rước mình thì o cũng kịp trải qua mấy mối tình. Có lần o khoe với mẹ tôi là vừa đi chơi và chụp ảnh với ông người yêu ở thành phố đến, chụp giữa mưa đó chị, người em ướt như chuột và em rét run lên. O diễn tả khiến tôi cũng có cảm giác run theo. O đưa cho mẹ mấy tấm hình đen trắng người ấy chụp. Mẹ hỏi hình ông ấy đâu để chị xem tướng mạo ra làm sao? O cười bảo người ta chụp cho mình chứ mình đâu biết chụp cho người ta, người ta là nhiếp ảnh gia mà. Mẹ tôi hỏi: “Ông ấy bỏ vợ bỏ con hay sao?”. O bảo: “Anh ấy hứa sẽ ly dị trước khi cưới em!”. Mẹ tôi bảo: “Em bị lừa rồi đó”. O khăng khăng: “Chúng em yêu nhau thật lòng!”. Rồi một hôm, o đến ôm mẹ tôi khóc: “Em bị lừa thật chị ạ! Hắn đòi ngủ với em song em không đồng ý. Hai ba lần không được đáp ứng hắn chuồn luôn!”. Biết o buồn nhưng mẹ tôi vẫn nói: “Thế cũng may cho em”.
Một lần khác o đưa một người đàn ông đến nhà tôi. Trông ông này chải chuốt, áo quần là lượt, tóc cũng bóng mượt, da trắng, miệng đỏ như tô son, nói năng nhỏ nhẹ, giẻo như kẹo kéo, ánh mắt luôn nhìn thao láo. Khi không có mặt ông ấy, o nói nhỏ với mẹ tôi rằng em không hợp với anh ta cho lắm, song nghĩ như chị nói là đừng kén chọn nữa nên em cũng đánh liều. Chừng này tuổi sống một mình em thấy chông chênh lắm. Mẹ chỉ biết khuyên o: “Đời phụ nữa chúng mình mười hai bến nước, biết đâu được bến đục trong”.
Ai cũng mong o tìm được bến đỗ bình yên, song điều đó thật khó.
4. Cái tin o lấy chồng là giám đốc nhanh chóng loan đi cả làng, trở thành đề tài nóng hổi đứng đâu ngồi đâu cũng nghe. Chuyện lần này của o thật một trăm phần trăm chứ không như chuyện những lần trước. Chồng sắp cưới của o tên Vương, làm giám đốc nhà máy gạch ngói, là một trong hai đơn vị Nhà nước đóng trên địa bàn huyện. Ông quê ở miền biển, gia đình vợ con ở thị trấn. Hai năm trước, vợ ông đột ngột mất sau một cơn đau tim. Ông có ba đứa con, đứa nhỏ nhất mới lên bốn tuổi. Một mình ông vừa lo việc nhà máy vừa cáng đáng việc nhà không xuể, ông cần người đỡ đần. Người ta giới thiệu ông đến o. Hoàn cảnh đưa đẩy, o đã mấy lần đến nhà ông, thương ông, thương các con ông, o chấp nhận.
Đám cưới của o diễn ra không rình rang như lời đồn trước đó của dân làng, rằng là lấy giám đốc thì đám cưới sẽ vương giả xa hoa, vì người ta thiếu gì tiền mà không làm cho hoành tráng. Đám cưới của o chỉ tổ chức mấy mâm mời bà con họ hàng. Khác với những đám khác có họ hàng đôi bên, đám cưới của o có họ hàng ba bên, họ nhà trai, họ nhà vợ đã khuất của ông giám đốc và họ hàng nhà o. Hôm đám cưới, từ phía họ nhà người đã khuất đôi khi có tiếng khóc sụt sùi, thành thử họ nhà gái muốn chia vui cũng đành ngậm ngùi. Họ nhà tôi hôm đó thuê hẳn một xe khách, vì mọi người muốn bù đắp cho o những tháng ngày cô đơn tủi cực. Ngày cưới o, dù vừa mới tốt nghiệp Đại học mới nhận công việc ở xa, tôi cũng xin nghỉ việc để về chung vui cùng o.
Lấy chồng được một thời gian, o bỏ nhà chồng trở về nhà tôi, ôm mẹ tôi khóc. O bảo em muốn xin ở với chị một thời gian. Mẹ tôi hỏi mãi o mới ấm ức kể. Không ngờ chuyện lấy chồng của o lại cơ cực đến vậy. Đầu tiên là chồng o, ông giám đốc tục huyền. Người ta có mất vợ mới lấy đến o, mà mình cũng là gái ế mới chấp thuận người ta. Tưởng là rổ rá cạp lại thì thương yêu nhau, song người ta cũng coi thường o lắm, kiểu như lấy o về để phục dịch trong nhà chứ không phải để làm vợ. Qua lời kể của mẹ, tôi đã hình dung ra tình huống ấy, không có lòng với nhau lại đưa nhau về ở chung nhà thì chẳng dễ gì chịu đựng. Nghĩ đến điều đó tôi thông cảm với o, hiểu hơn cảnh ngộ của o.
Chưa vơi chuyện chồng, lại thêm chuyện con chồng. Nhà đó có đến ba đứa con gái. Đứa đầu đang học lớp 8, hai đứa sau đứa lớp 4, đứa mới lên bốn tuổi. Đứa bé nhất còn nhỏ nên nó luôn quấn bên o, nhưng hai đứa chị thấy thế cứ giằng em ra khỏi tay o, còn đánh và mắng em là sao mày ngu thế, mày quên mẹ rồi sao, mụ ấy đâu phải mẹ của mày! Biết chúng còn thơ dại nên o đã nói với chúng: “Mẹ các con vì bệnh tật nên đã đi xa, dì sẽ thay mẹ chăm sóc các con, dì thương các con như con của mình!”. Đứa lớn đỏ mặt phùng má nói lớn: “Mụ đừng lừa chúng tôi”. Rồi quay sang nói với lũ em: “Các em đừng nghe mụ ấy nói. Khác máu tanh lòng!”. Có hôm vào bữa ăn, bọn trẻ chẳng những không ăn còn ném vỡ bát đĩa rồi đứa chị kéo tay đứa em vào buồng chốt cửa lại. Chồng o cứ điềm nhiên nhìn đứa út đang ngồi lại, không nói gì. O mới bảo ông ấy vào dỗ các con. Nói đến mấy lần ông ấy mới rời chỗ đến gõ cửa mấy cái, song không thấy cửa mở. Ông ấy không ngồi xuống mâm ăn tiếp, mà đến ngồi bên bàn rót nước uống. O đã định không nói gì, nhưng chịu không được nên mới lớn tiếng: “Đáng lẽ anh phải khuyên con. Đằng này anh lại làm thế thì khác gì đổ dầu vào lửa, khuyến khích chúng chống lại em. Mà em đã làm gì sai? Anh biết em đã phải làm những gì để có một bữa cơm như thế này cho cả nhà? Anh không thấy em cố gắng vì bố con anh hay sao?”. Ông ấy lạnh lùng nói: “Em không biết nấu những món như mẹ chúng nó đã nấu. Đến anh cũng phải chịu đựng, nói gì các con!”. Nghe thế o dận tím mặt, cố nuốt cục tức xuống cổ, đay nghiến: “Tại sao anh không nói thẳng với em từ đầu, để đến lúc này mới nói?”. Ông ấy lấy thuốc ra châm lửa hút, khói bay tung tóe trong nhà. Tối hôm ấy, mấy cha con nhà đó vào ngủ ở một phòng. Một mình o trằn trọc mãi trên giường, gần như thức trắng. Sáng hôm sau ông ấy bảo: “Tôi sẽ đưa các con về ngoại gửi một thời gian, đó cũng là nguyện vọng của các con!”. O cũng đã nghĩ nhiều về mọi tình huống trong một đêm mất ngủ tối qua, nên o không nói gì cả. Những ngày đó lấy cớ đến thăm con, ông ấy cũng ít về nhà, thành ra ở nhà chỉ có mỗi mình o.
Mấy hôm sau, mấy bà dì ông cậu của bọn trẻ đưa bọn trẻ trở về nhà. Thấy mọi người đến và bọn trẻ trở về o rất mừng, o đon đã đón chào họ. Ngờ đâu trước mặt bọn trẻ, o đã bị bọn họ mắng tới tấp, nào quá lứa lỡ thì mới được làm vợ người ta, không biết thân biết phận lại còn độc ác với bọn trẻ, rồi thì nào là gái già lắm lời, nào là ác giả ác báo,... O choáng váng đến không đứng vững, cứng họng không nói nên lời. Một bà dì còn nhìn o chì chiết: “Đúng là mụ gì ghẻ độc ác! Khác máu tanh lòng!”. O giật mình, thì ra những lời bọn trẻ từng nói với o đều từ đây mà ra. Sao người ta không chịu hiểu hoàn cảnh lại còn đi trách móc, làm khổ người khác đến vậy? Nghĩ lại những tháng năm ở chiến trường gian khổ luôn tìm cách đối phó với kẻ thù, kẻ thù nó hiện hữu, giờ đây về nhà mình, muốn bình yên mà vẫn bị quấy nhiễu, mà những kẻ muốn gây chiến với mình lại là những người mình đang muốn gắn kết yêu thương. O đau đớn đến không chịu đựng nổi. O lại tìm cách cầu cứu chồng mình, song chỉ nhận được ở ông cái nhìn lạnh tanh, vô cảm. O hoàn toàn suy sụp. Ông ấy là chiếc phao cuối cùng mà o có thể bấu víu trong ngôi nhà này, nhưng đã gạt bỏ o để o một mình bơi lội trong mênh mông sợ hãi. Bao lần o đặt câu hỏi vì sao? O cố tách mình ra, đặt mình vào cảnh ngộ của chồng, thi thoảng vén bàn thờ nhìn di ảnh người vợ đã khuất của chồng, cố hình dung tình cảm họ dành cho nhau. O thấm thía cảnh ngộ của mình. Chờ khi mọi người về rồi, chỉ còn cha con nhà ấy, o lẳng lặng mấu một bữa cơm tươm tất. Sau bữa ăn, khi bọn trẻ về phòng mình, o nói với chồng: “Từ chiều nay tôi sẽ về bên ngoại để suy nghĩ về cuộc sống của mình. Bố con anh tự chăm sóc nhau!”. Khuôn nặt ông ta có vẻ bàng hoàng, tức giận, nhưng vẫn lạnh lùng không nói.
O đã về nhà mẹ tôi, lúc đầu o muốn tự giải quyết chuyện của mình, nhưng rồi o đã dốc bầu tâm sự. Mẹ tôi kể, sau khi nghe chuyện của o, buổi sáng hôm đó lấy cớ đi chợ huyện, mẹ đã rẽ vào nhà ông giám đốc. Lúc mẹ đi chợ về, đã thấy ông giám đốc đến từ lúc nào. Trưa hôm ấy, mẹ tôi làm một bữa ăn thịnh soạn mời vợ chồng o. Sau bữa ăn, chồng o xin phép chở o về bằng xe máy.
5. Ngày mẹ tôi mất vì đột quỵ, o trở về với chúng tôi, vẫn lo chu toàn cho mẹ tôi như ngày xưa o từng lo cho đám tang của cha tôi. Quả thực lúc tang gia bối rối, nếu không có o đỡ đần, anh chị em chúng tôi, vợ chồng chúng tôi khó mà lo được cho mẹ chu toàn đến thế.
Chúng tôi làm lễ cúng ba ngày cho mẹ vào buổi chiều. Tối đó o ở lại. O cùng vợ chồng tôi ngồi bên cái bàn nhỏ cạnh bàn thờ mẹ. O nói với chúng tôi: “Mẹ các cháu là người hiếm có, là món quà thượng đế trao xuống cho o. Y như số o có thần hộ mệnh!”. “O tin vào tướng số à?”- Vợ tôi hỏi.
“O chỉ tin vào vận may gặp mẹ các cháu thôi” – O nói rồi kể: “Những ngày o gặp đau khổ nhất trong cuộc đời đều có mẹ các cháu động viên chia sẻ. O đã từng buông xuôi và về với mẹ các cháu. Mẹ các cháu đã từng khuyên o trở về, còn đinh ninh rằng rồi có lúc gia đình người ta sẽ phải biết ơn em thôi. O không tin điều mẹ các cháu nói. O cứ làm bổn phận của người vợ người mẹ ở nhà đó. O đã từng nhường nhịn và dịu dàng, nhưng mọi chuyện không như mong muốn. O chuyển sang cứng rắn và nghiêm khắc. Lúc o dạy bảo, bọn trẻ không nghe, o gọi ông chồng tới, nói: “Ông không bày dạy cho các con, sau này lớn lên có chuyện gì nếu trách là trách bố nó, chứ không thể trách tôi!”. Ông chồng vô tâm của o đúng là có lúc phải cầu cứu đến o về cách dạy dỗ các con. Bây giờ o không sợ mang tiếng dì ghẻ độc ác từ lời của các bà dì ông cậu bọn trẻ nữa. Có lần dạy bảo bọn trẻ chúng không chịu nghe, chúng còn ngúng nguẩy bỏ về ngoại. Hai hôm không thấy về nhà, sau giờ làm ở cơ quan, o đạp xe thẳng đến nhà ông cậu. Các ông cậu bà dì đánh hơi chạy sang. Khi có mặt khá đông các ông cậu bà dì, mọi người cứ theo thói quen xỉ mắng o. O cố nén lòng lắng nghe. Khi mọi người nói xong, o mới lên tiếng: “Tôi đến với nhà tôi bằng hai bàn tay không, nếu ra đi tôi cũng đi tay không. Nhà cửa là của ông ấy và chị các người, tôi không màng tới. Tôi đến khi nhà này còn có bọn trẻ phải nuôi dưỡng, các người không để vợ chồng tôi chăm nuôi, các người dạy dỗ được thì làm giúp chúng tôi, chồng tôi có trách nhiệm mang lương về cho các người chăm cháu”. Im một lúc o mới tiếp: “Bằng không các người cứ để vợ chồng chúng tôi lo. Tôi chỉ đến đây lần này để nói điều này, không có lần thứ hai. Nếu các người không làm được, ngày mai làm ơn chở các cháu về nhà chúng giùm tôi!”. Không đợi cho mọi người lên tiếng, o ra sân dắt xe, đạp thẳng một mạch về nhà. Tối đó ông ấy về không thấy các con, mắng o: “Lại làm loạn lên để con bỏ đi mới hả dạ sao?”. O bảo tôi không làm loạn gì cả, không tin ông cứ đến hỏi thẳng các con, mà đã có bao giờ ông tin tôi đâu? Ông ấy trừng mắt nhìn o rồi dắt xe ra. O mới điềm tĩnh bảo: “Nếu đi đón các con thì ông không phải đi nữa. Ngày mai cậu bọn trẻ sẽ chở chúng về đây nhờ cậy tôi. Lúc đó quyền bày dạy các con tôi sẽ nhận. Ông là bố không làm được, để đó tôi làm. Còn như nếu ông cản trở tôi, thì tôi sẽ ra đi. Tôi đến tay không, nếu ra đi tôi cũng đi tay không. Nhà cửa là của ông, của chị ấy và của các con, tôi không màng tới”. O lại nói với ông ấy cái điều mình đã từng nói với ông cậu bà dì bọn trẻ. Ông ấy có vẻ hậm hực, nhưng không nói gì, quay vào nhà ngồi xuống ghế, lại lấy thuốc ra hút. Hôm sau quả nhiên ông cậu chở bọn trẻ về nhà, không thèm nhờ cậy o chăm sóc chúng nhưng cũng không nói điều gì khó nghe. Ông chồng không dấu được vẻ ngạc nhiên. Nói vậy song o cũng không dễ dàng mà ra khỏi nhà đó lúc ấy được, vì o đã mang thai. Rồi o sinh thằng mậm vào mùa thu mưa dầm dề. Các cháu không hình dung nổi đâu, khi thằng mậm lớn lên, chính các chị của nó lại quấn quýt bên em, lúc nào thằng em quấy lại gọi o “dì ơi làm sao đây dì”, o đã chạy tới và bảo để dì giúp các con! Chồng o ngồi nhìn, từ ngày sinh thằng mậm, ông ấy đã bỏ hút thuốc. Giờ thì hai đứa con gái đầu đã yên bề gia thất, đứa con gái sau đang học đại học. Ngày chúng sinh con, chúng gọi điện nhờ dì đến giúp. O chẳng nề hà!”.
Chuyện o kể cho chúng tôi nghe đã mười mấy năm rồi vẫn còn in đậm trong kí ức tôi. Giờ O đã tóc bạc da mồi. Ngày Tết o còn lên thắp hương cho mẹ tôi đã là một sự cố gắng.
6. Sau mồng ba Tết, vợ chồng tôi đánh xe đến chúc Tết o. Dĩ nhiên là Tết nào vợ chồng tôi cũng đến thăm o. Mọi năm o ở nhà, năm nay chỉ thấy dượng. Dượng bảo: “Bà ấy đang đi họp tổ liên lạc bộ đội Trường Sơn, chuẩn bị cho kỉ niệm 45 năm ra quân vào tuần tới. Cũng ở gần đây và giờ chắc cũng đã họp xong, để tôi gọi bà ấy về”. Thấy việc hệ trọng, chúng tôi bảo gặp dượng là được rồi, song ông vẫn bấm điện thoại. Tôi nhìn cây đào Tết trang trí sặc sỡ trước sân nhà. Nhà o năm nào cũng có cây đào chưng Tết thật đẹp. O từng nói với tôi rằng mình tên Đào nên năm nào cũng sắm một cành đào đón Tết. O thường khoe với chúng tôi cây đào năm này là quà của cô cả, cành đào năm kia là quà của cô Hai,... O còn nói cái tên nó vận vào mình, nên cuộc đời cứ như cánh hoa trong gió, không khéo giữ thì lìa xa bất kì lúc nào. Tôi bảo o đã nhận được một kết quả xứng đáng rồi còn gì! O nhìn ông chồng mình với mái tóc bạc phơ đang lục cục chuẩn bị gì đó trong nhà. O nói nhỏ với tôi: “O với người đàn ông kia nợ nhiều hơn duyên. Cái số o đã thế o cũng chã nghĩ ngợi gì nhiều. O cũng đâu có ân hận!”. Tôi chỉ biết nhìn o, vừa thương o vì không được lựa chọn nhưng cũng cảm phục o vì đã hành động đúng. Lại nhớ ai đó đã nói rằng sống trong cuộc đời đâu phải chỉ để yêu thương nhau mà còn phải chịu đựng lẫn nhau. Chịu đựng để có được cuộc sống như hôm nay cũng coi như là đã toại nguyện. Chỉ người tham lam đòi hỏi quá mới tự làm khổ mình thôi. Đây là điều mà tôi đồng cảm với o. Thấy chúng tôi đứng lâu ngoài sân, ông dượng tóc bạc mới mời vợ chồng tôi vào nhà. Tôi nấn ná ngoài sân ngắm cây đào với những bông hoa rực rỡ khoe sắc trong ngày Tết. Nếu không có Tết hoa đào cũng như muôn loài hoa thế thôi, nở rồi lại tàn, có Tết hoa đào được tôn vinh. Nhất định rồi, cái đẹp luôn được nâng niu và trân quý!
P.T.D.T