Nhà thơ Bùi Quang Thanh, sinh ngày 05/05/1950, quê làng Kim Tỉnh (Giếng Vàng), xã Cẩm Tiến, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là bộ đội chống Mỹ tại chiến trường B3 (1971-1974). Sau giải phóng, ông làm thơ và viết báo, nguyên Chánh văn phòng Hội VHNT Hà Tĩnh; phóng viên, Biên tập viên Tạp chí Hồng Lĩnh; Nguyên Trưởng Cơ quan đại diện Miền Trung - Tây Nguyên báo Bảo vệ pháp luật của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao. Tạp chí Hồng Lĩnh số Tết Ất Tỵ 2025 (221+222) trân trọng giới thiệu chân dung, tác phẩm của nhà thơ và bài viết “Cảm nhận Bùi Quang Thanh” của nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại.
Nhà thơ Bùi Quang Thanh
Nhà thơ Bùi Quang Thanh, sinh ngày 05/05/1950, quê làng Kim Tỉnh (Giếng Vàng), xã Cẩm Tiến, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là bộ đội chống Mỹ tại chiến trường B3 (1971-1974). Sau giải phóng, ông làm thơ và viết báo, nguyên Chánh văn phòng Hội VHNT Hà Tĩnh; phóng viên, Biên tập viên Tạp chí Hồng Lĩnh; Nguyên Trưởng Cơ quan đại diện Miền Trung - Tây Nguyên báo Bảo vệ pháp luật của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao.
Bùi Quang Thanh là hội viên Hội Liên hiệp VHNT Hà Tĩnh trong những năm đầu tái lập tỉnh (1992). Thơ Bùi Quang Thanh đã góp phần vào sự hình thành và phát triển một trào lưu văn học mới mẻ ở Hà Tĩnh từ những ngày đầu tách tỉnh. Từ ngành Giao thông vận tải, ông chuyển về công tác tại Hội Liên hiệpVHNT Hà Tĩnh vừa phụ trách công tác Văn phòng Hội vừa là phóng viên, BTV Tạp chí Hồng Lĩnh, vừa làm thơ, viết ký…
Với niềm đam mê văn chương và thành quả là những tác phẩm thơ có giá trị, ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2003.
Bùi Quang Thanh đã có những đóng góp quan trọng cho gương mặt Thơ Hà Tĩnh sau 1975. Thơ ông chủ yếu viết về người lính và quê hương với giọng điệu trữ tình rất riêng, với những buồn vui chân thành dung dị mà không kém phần sâu sắc. Ông là tác giả của gần chục tập thơ, chiếm được nhiều cảm tình yêu mến của bạn đọc: Một thời sao lãng quên (tập thơ, Hội VHNT Hà Tĩnh, 1994), Hạt đắng (tập thơ, Nxb Thanh niên, 1998), Đò dọc - sông đêm (tập thơ, NXBHNV, 2002), Ngọn gió - Dòng sông (tập thơ, NXBHNV, 2003), Mật ong vàng lũng núi (tập thơ, NXBHNV 2007), Cánh đồng thời gian (tập thơ, NXBHNV, 2015), Bùi Quang Thanh THƠ (tuyển chọn, NXBHNV, 2020). Ngoài thơ, ông còn viết văn xuôi. Tập truyện ký Nam hành ký sự (Nxb Nghệ An, 2024) là kết quả của những chuyến rong ruổi hầu như khắp mọi vùng miền, thể hiện niềm đam mê đi và viết của ông.
Những đóng góp của nhà thơ Bùi Quang Thanh được ghi nhận bằng Giải thưởng VHNT Nguyễn Du lần II (2000), III (2005) và Giải thưởng Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1998 – 1999).
BÙI QUANG THANH
Mẹ & trăng
Mấy ai qua một kiếp người
Mà không có Mẹ - nụ cười mặt trăng
Mẹ không mặc áo chị Hằng
Mà tươi, mà đẹp mà bằng...muôn hoa
Xin đừng cõng Mẹ đi xa
Xin nghe mãi Mẹ lời ca vĩnh hằng.
Cũng đừng sánh Mẹ với trăng
Bởi trăng chỉ trọn đêm rằm mà thôi
Mẹ ta trong cả kiếp người
Cho ta vành vạnh nụ cười làm con
Mẹ chọn năm sinh tôi
Mẹ chọn năm sinh tôi
Năm thế kỷ hai mươi bị tách làm hai nửa
Nửa đầm đìa tủi nhục bỏ lại phía sau
Tự do rộng dài theo bước chân giải phóng
Áo trấn thủ cha mang dấu võng tôi nằm
Chiếc võng lác đầm đìa hương cỏ mật
Đẫm nắng mặt trời
Đẫm gió - sương - trăng
Cha cùng Trung đoàn hành quân vào Bình - Trị
Hoành Sơn Quan giăng chiến lũy ngăn thù
Đoàn Vệ quốc bạc đà mây, chân đất
Đến Ba Rền, Cự Nẫm giữ chiến khu
Súng giặc nổ. Bốn phương súng nổ
Đất tự do một tay mẹ chống chèo
Một tay mẹ giữa mưa nguồn chớp bể
Tôi: cục than hồng. Tôi: mảnh trăng treo
Cha cùng Đại đoàn hành quân lên ải Bắc
Mẹ chẳng địu tôi lên vọng đá đợi chờ
Vạt lúa lẩy đòng, vồng khoai kịp chưa tủ
Dưới Thiên Cầm tàu chiến giặc mò vô.
Hạt gạo cũng theo người ra hỏa tuyến
Bồ dân công đan tre cật vườn nhà
Những lóng tre vỗ về tôi từng giấc
Giã xóm làng cõng gạo tiếp sức cha
Quê hương ơi những chiều trong cổ tích
Đám trai làng ra trận ba lô mây
Cánh đồng quê tà váy nâu nhuốm đất
Bước chênh chao không chịu lỗi nhịp cày...
Tuổi tôi đếm theo từng tên chiến dịch
Một tuổi: Biên giới
Hai tuổi: Hòa Bình
Ba tuổi: Tây Bắc
Bốn tuổi: Điện Biên
Dõi chân trời tìm bóng cha bóng chú
Ráng mây nào từ lửa khói bay lên?
Cha tôi: vầng mặt trời
Gần thì bỏng rát
Xa thì nhớ mong
Mẹ là tấm gương
Không! Mẹ là vầng trăng
buồn và trong dẫu đầy dẫu khuyết
Tấm gương - vầng trăng
phản hình bóng cha vào tôi âm thầm mãnh liệt
Tôi hấp thụ Người cả lúc xa xôi
Tuổi hai lăm
Cha nhận sứ mệnh của người vệ quốc
Hăm hở ra đi như ra hội ra đình
Mẹ lặng lẽ gánh phần cha để lại
Một nửa việc nhà
Một nửa - cuộc chiến tranh
Anh tôi, chị tôi và tôi
Líu ríu trong thúng đời của mẹ
Mẹ đang kì son trẻ
Yếm trắng che khoảng áo ngực để hờ
Khoảng áo ngực dành cho tôi bú
Những bữa chiều vơi bát nheo, khô
Bầu vú mẹ là món quà duy nhất thường xuyên tôi được nhận
Là nắm cơm ngon nhất tôi được ăn
Là quả thị thần tiên trong cổ tích
Là chiếc kẹo cu đơ vĩnh cửu ngọt ngào
Khoảng yếm mẹ là bầu trời tôi sờ được từng vân mây
Tôi vuốt được từng sợi tóc
Nơi mẹ thường cúi xuống nựng tôi
Giọt mồ hôi trên môi Người mặn chát
Khoảng yếm là nơi phập phồng của ngàn đêm thao thức
chồng ngoài chiến trận
con đói bờ nôi
lo bão tốc nhà
lo lụt trôi khoai
Phập phồng nắng mưa
phập phồng đạn bom
phập phồng...im lặng
Da diết nỗi tình thâm mẫu tử
Mẹ hát ru tôi, mẹ hát ru mình
Công trời bể sinh thành trong bài ca ấy
Chẳng nhắc gì về những cuộc chiến tranh
Chẳng nhắc gì mà cứ oằn lưng mẹ:
Đứa lên một, lên hai
Đứa lên ba, lên bốn
Đứa bé bao giờ lớn
Đứa lớn bao giờ khôn
Đứa khôn bao giờ cậy...?
Lời mẹ ru mỏi mòn.
Cha làm ngọn gió đi quét quang bờ cõi
Mẹ - dòng sông bám giữ đất quê nhà
Sông miền Trung
những cái tên mộc mạc:
sông Hội, sông Cày, sông Phủ, sông La...
Những con rồng đuôi víu vào vách núi
Mạch hòa cùng đất đai
Nối biển liền rừng
Chắt nước làm mây
Gửi mây vào gió
Gió và mưa tạo thành bão tố
Lụi dần lửa khói chiến tranh
Những dòng sông
Biết làm duyên bằng gợn sóng
Một khúc luyến cũng thành câu ví dặm
Thành câu đò đưa tha thiết đến nao lòng
Ơi ngọn gió. Người ơi! Ngọn gió
Rong ruổi lưng trời có biết một đời sông?
Cảm nhận Bùi Quang Thanh
NGUYỄN SĨ ĐẠI
Lý lịch, căn cước của một nhà thơ là ở những câu thơ.
Với một nhà thơ Việt Nam, thì những câu thơ ấy phải chảy từ máu huyết của một trái tim yêu nước, từ cuộc đời của một người “thương người như thể thương thân”, yêu người yêu “tam tứ núi cũng trèo”, yêu Tổ quốc đến hy sinh cả sự sống của mình và hàng ngày:
Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao.
(Xuân Diệu – Những đêm hành quân)
Bùi Quang Thanh là người có một cuộc đời như vậy để có những câu thơ như vậy.
*
Anh sinh ngày 05-05-1950, tại xóm Kim Tỉnh (Giếng Vàng), xã Cẩm Tiến, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh.
Mười chín tuổi nhập ngũ, trực tiếp chiến đấu tại chiến trường Tây Nguyên. Bùi Quang Thanh viết: “Bình minh tuổi trẻ trong ngần những ước mơ dự định của các chàng trai cô gái chân đất chưa kịp buông dây cho cánh diều của mình bay bổng thì tiếng lòng đã thôi thúc đón chờ buổi lao vào binh lửa chiến trường. Những đôi môi chưa biết nói lời yêu, những ánh mắt chưa tan hết ngu ngơ của tuổi thơ đồng nội; những giọt nước mắt nhớ nhà chưa biết lặn vào trong mà nóng hổi lăn tròn trên những đôi má phúng phính lông tơ. Họ ra đi từ miền quê nghèo khó nhưng tuyệt đẹp về truyền thống ông cha, lòng vẫn thầm ước mong sớm được trở về dưới những mái nhà tranh để xây đời mở nghiệp…” (Đến hẹn lại về - Nam hành ký sự).
Trong những ngày đói cơm, nhạt muối; những ngày mà cái chết có thể bay đến lúc nào từ họng súng kẻ thù, từ những cánh rừng âm u sốt rét; anh nhận thấy sự sống con người thật là vô giá, ý nghĩa của chỉ một ngày sống thôi cũng thật là vô giá. Anh nhận thấy tình đồng ngũ, tình đồng bào Kinh Thượng sẵn chết vì nhau, son sắt niềm tin ở Bác Hồ, ở cách mạng. Tây Nguyên còn cho anh sự hùng vĩ đại ngàn; của tráng chí Đăm San. Và từ một chàng thanh niên hồn hậu, Bùi Quang Thanh trở thành Anh Bộ đội Cụ Hồ, thành Anh Giải Phóng quân “Mũ tai bèo áo quần lem thuốc súng” - một thứ thép đã tôi, một hình tượng trung tâm và đẹp nhất của nghệ thuật thế kỷ XX.
Tôi từng có câu thơ kể chuyện nhà mình “Ông tôi, cha tôi và tôi/ Ba đời làm lính ba đời nông dân”. Gia đình Bùi Quang Thanh còn có truyền thống cách mạng hơn thế. Ông nội nhà thơ là cụ Bùi Quang Thị (tức Bùi Thị, bí danh Phấn Đấu). Năm 1927, cụ tham gia Đảng Tân Việt, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, cụ là người đảng viên đầu tiên, là Bí thư Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở huyện Kỳ Anh. Năm 1930, cụ Bùi Thị bị thực dân Pháp bắt vì tham gia lãnh đạo Xô Viết Nghệ Tĩnh ở nam Hà Tĩnh, bị kết án khổ sai chung thân và bị đày ở các nhà tù Vinh, Lao Bảo, Quảng Trị, Đăk Min, Buôn Mê Thuột... Bố của nhà thơ Bùi Quang Thanh là Chính trị viên Đại đội trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Và người mẹ ở quê không chỉ gánh trên vai mình mọi cuộc chiến mà còn nuôi con lớn nên người, nuôi dưỡng dòng máu anh hùng và thi sĩ, đúng như Bùi Quang Thanh đã viết trong trường ca Đò dọc sông đêm:
Cha cùng Trung đoàn hành quân vào Bình Trị
Hoành Sơn Quan giăng chiến lũy ngăn thù
Đoàn Vệ quốc bạc đà mây, chân đất
Đến Ba Rền, Cự Nẫm giữ chiến khu
Súng giặc nổ. Bốn phương súng nổ
Đất tự do một tay mẹ chống chèo
Một tay mẹ giữa mưa nguồn chớp bể
Tôi: cục than hồng
Tôi: mảnh trăng treo…
Nhà thơ Bùi Quang Thanh với các chiến sĩ trên quần đảo Trường Sa (4/2023)
Không phải chỉ những tháng năm trong quân ngũ, mà chính cả truyền thống gia đình và quê hương như thế, một người Mẹ như thế mới làm nên Bùi Quang Thanh, một Nhà thơ – Chiến sĩ, nhà thơ công dân. Và làm nên sự trung thực, “mắt sáng lòng trong bút sắc”; một Bùi Quang Thanh nhà báo với chí nguyện “phò chính trừ tà” khi viết cho các báo, trong đó đáng kể nhất là mười năm làm Trưởng Cơ quan đại diện Miền Trung – Tây Nguyên báo Bảo vệ pháp luật của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
*
Bùi Quang Thanh là Hội viên Hội Văn nghệ Hà Tĩnh (1992), Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2003), Hội viên Hội Nhà văn Đà Nẵng (2004). Ông đã có 7 tập thơ riêng, một tập truyện ký dày dặn, hàng ngàn bài báo, bức ảnh… in ấn trên các ấn phẩm sách báo đương đại, được tặng nhiều giải thưởng ở trung ương và địa phương, góp phần vào tài sản văn chương nghệ thuật của Hà Tĩnh nói riêng và làng Văn Việt Nam nói chung. Qua đó cũng khẳng định được một gương mặt thơ của Đất Thơ Hà Tĩnh.
*
Năm 1991, Hà Tĩnh tách khỏi Nghệ Tĩnh. Cán bộ Hà Tĩnh ngành nào cũng thiếu. Cái gì cũng gầy dựng lại từ đầu. Hồi đó, có câu nói cửa miệng: Hà Tĩnh có mười nhà văn/ Xuân Hoài là một, Đức Ban là mười. Nói là “mười” cho vui thế thôi chứ thực ra lúc đó cả tỉnh chỉ có hai người ấy (một thơ một văn xuôi) là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Từ ngành giao thông, đang làm ở một đơn vị xe máy xây dựng công trình, Bùi Quang Thanh đầu quân về Hội Văn nghệ, xây dựng Hội Văn nghệ Hà Tĩnh từ những ngày đầu. Suốt 8 năm công tác ở Hội VHNT Hà Tĩnh, trong cương vị Chánh Văn phòng, vừa làm phóng viên, biên tập viên Tạp chí Hồng Lĩnh, ông đã góp sức xây dựng và phát triển Hội và Tạp chí Hồng Lĩnh, là nhịp cầu thân thiết kết nối Hội Hà Tĩnh với các Liên hiệp các Hội VHNT, các hội chuyện ngành Trung ương và nhất là các hội Miền Trung anh em. Theo tôi được biết, Đức Ban (Chủ tịch Hội) và Bùi Quang Thanh (Chánh văn phòng) đóng vai trò quan trọng trong sự kết nối này bởi khoảng thời gian ấy, Báo Nhân Dân cử tôi về làm Phóng viên Thường trú tại Nghệ An và Hà Tĩnh, có điều kiện gần gũi các anh.
Mỗi khi ở Vinh vào Hà Tĩnh công tác, nơi tôi đến đầu tiên là Báo Hà Tĩnh và Hội Văn nghệ; cả hai đều ở chung tòa nhà. Anh Thanh thường tổ chức các cuộc giao lưu cho bạn bè. Khi sang thì được anh kéo về nhà anh ở cầu Vọoc hoặc nhà Đức Ban, Lê Văn Thơn làm bữa lẩu bò; xoàng hơn thì thịt chó, lòng heo, rượu côộc toóc và… thơ. Ngoài anh Xuân Hoài là bậc đàn anh, lại mang phong cách nhà giáo, ít khi suồng sã; anh Đức Ban còn giấu thơ; thì Duy Thảo, Nguyễn Bá Linh, Nguyễn Văn Hùng, Phạm Việt Thư, Xuân Hải, Bùi Quang Thanh… có cuộc là có thơ. Anh Duy Thảo, anh Bùi Quang Thanh, Xuân Hải là người thuộc thơ nhiều nhất và đọc thơ hay nhất.
Tôi nhớ, một ngày tháng 8-1996, sắp tới ngày giỗ 10 cô gái Đồng Lộc, Bùi Quang Thanh “xin phép” đọc bài thơ “Hà ơi” mới viết.
Chén rượu trắng chắc em không biết uống
Khói hương thơm bay hết cả lên trời
Giọt lệ anh rơi vào lòng đất
Có ấm chỗ em nằm?
Hà ơi!
Mười chị em ngủ hai tám năm trời
Ngàn thông xanh như tóc em mười bảy
Cụm sả ai trồng thơm trong nắng cháy
Thay hương bồ kết bạn anh mong
Tiểu đội đã dàn hai hàng ngang ngoảnh mặt xuống đường
Hố bom Mỹ chắn ngang sâu xoáy ruột
Chị Tần thương em không cho em đứng trước
Lúc hy sinh, Hà ơi có nguyên lành?
Chẳng hiểu sao mỗi lần anh đến thăm
Hoa cỏ may níu dày hơn một chút
Những hạt ngâu màu buồn không chịu được
Cứ rưng rưng như muốn nói điều gì…
Hãy yên lòng bên các chị, ngủ đi
Đừng sợ tiếng quạ kêu
Đừng sợ bom lại nổ
Màu hoa đỏ cành bông trang bên mộ
Nhắc anh không quên được một thời
Ngã ba này, những mất mát – Hà ơi!
Chén rượu trắng hôm đó của tôi chan cùng nước mắt. Bài thơ ám ảnh mãi. Bài thơ ấy cùng bài ký “Đi tìm nơi vĩnh hằng của Dũng sĩ phá bom Vương Đình Nhỏ” của Bùi Quang Thanh; bài thơ “Cúc ơi” của nhà thơ Yến Thanh; các bài viết về Đồng Lộc của Bùi Minh Huệ… và những kỷ niệm ngày nhỏ khi đại đội 552 của các cô đóng quân quê tôi làm nhiệm vụ ở cống 19 đã thôi thúc tôi viết vở kịch “Khoảng trời con gái” được công diễn tại TP Hà Tĩnh và Ngã ba Đồng Lộc năm 2018 có đến 6 nghìn người xem, khiến tôi rất xúc động và hạnh phúc, rất biết ơn anh Thanh và các anh, các chị đã thôi thúc nguồn cảm hứng.
*
Bùi Quang Thanh là một người đa tài. Anh viết văn xuôi, viết báo, làm thơ, chụp ảnh, cái gì cũng say mê, cái gì cũng có những thành tựu ấn tượng. Nhưng có lẽ, đến bây giờ, thơ vẫn là “tay thuận”, là thành công hơn cả.
Những thập kỷ trước, đọc thơ Bùi Quang Thanh, tôi thấy anh thuộc dòng thơ hiển ngôn. Đọc là hiểu ngay. Anh viết văn như thơ và viết thơ như văn. Không có sự lấp lóa của từ ngữ, hình ảnh, liên tưởng lạ lẫm, bất ngờ như những nhà thơ xuất phát từ văn khoa lấy cầu kỳ, tìm tòi mới lạ thay cho vốn sống và hơi thở tự nhiên.
Thơ của Bùi Quang Thanh dựa vào sức mạnh của cảm xúc; vào những điều thiêng liêng, vào những mạch ngầm nhói xót chảy trong đất đai. Anh có nhiều bài viết về Mẹ, về thương binh, liệt sĩ, bài nào cũng rưng rưng. Và nghệ thuật cao cường của thơ nằm ở chỗ tự nhiên, ở sự hóa thân: Những tiếng nấc “Mẹ ơi!” trong gió thoảng/ Tượng đài cao run rẩy giọng trăm miền/ Nghìn con mắt đỏ mòng đêm thương nhớ/ Gió chợt dừng. Trăng lạnh. Phút giây thiêng.../ Ngày con đi, con là măng là sữa/ Giờ con về, con là đất là đai/ Giọt máu mẹ thấm vào rừng biên giới/ Trong quế thơm hoa trẩu trắng lưng trời (Đêm A Lưới)
Tôi ít thuộc thơ mình nhưng thuộc nhiều câu thơ của Bùi Quang Thanh mà tôi cho là hay, cái hay của ước mơ trong sáng, hiến dâng: Cứ làm hạt thóc ngày xuân/ Mẹ gieo buổi sớm nảy mầm buổi trưa/ Cứ làm cánh mạ đong đưa/ Đất ải cha bừa lúa trổ hương thơm/ Cứ làm hạt tấm hạt cơm/ Hoặc làm cọng rạ nhành rơm cho đời… (Nhân thế)
Cái hay của từ ngữ giản dị mà chất chứa suy tư, mà mang nặng câu hỏi về cuộc đời: Sông đã cạn, núi đã mòn/ Mẹ ơi sao mẹ vẫn còn khổ đau? (Về quê). Thuyền chật biển, súng ken bờ/ Nghìn năm dựng nước mấy giờ dân yên? (Đò dọc sông đêm)
Mảng thơ thiếu nhi của anh cũng rất hay, rất thiếu nhi mà làm người lớn giật mình: Gà trống thuộc mỗi chữ O/ Thế mà sáng sáng gáy to nhất làng (Học chữ). Dáng bản đồ Tổ quốc/ Giống bà em ra đồng/ Đỉnh nón là cực bắc/ Mây vờn Phăng Xi Phăng (Dáng bà)
Như phần lớn các nhà thơ khác, chiếm số lượng lớn nhất trong hàng nghìn bài thơ trong hơn nửa thế kỷ sáng tác của mình, thơ Bùi Quang Thanh dành nhiều cho tình yêu. Không biết anh có yêu nhiều không, nhưng trong thơ thì yêu rất say: Liền Pay... ai nỡ buông tay nữa/ Kìa em, bè bạn trẩy chợ tình/ Anh liêu xiêu bước mà như tựa/ Vào bờ vai trắng - đóa ban xinh (Đêm Mộc Châu)
Nhưng trong cái liêu xiêu, run rẩy vẫn có “một lằn ranh đỏ”, một sự bảo đảm, đó là sự thanh cao: Sông quê đêm ấy hoa bần nở/ Chén rượu môi em quá ngọt ngào/ Những cánh hoa lòng như nhắn nhủ:/ Vâng! Từ bùn đất đến thanh cao... (Từ bùn đất)
Tôi là một người nhà quê, nên rất thích những câu thơ của Bùi Quang Thanh viết về nhà quê. Viết về nhà quê, trong thơ Việt Nam hiện đại, không ai có thể so với Nguyễn Bính: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy… (Mưa xuân, 1936); Xanh biếc đầu xuân nương mạ sớm/ Dậu tầm xuân nở, bướm vàng hoe (Trở về quê cũ); Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân/ Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần/ Bươm bướm cứ bay không ướt cánh/ Người đi trẩy hội tóc phơi trần (Mưa xuân, 1958). Nhưng đây là cảnh nông thôn Miền Bắc. Nguyễn Bính chỉ lấy nông thôn làm bối cảnh, dù thật, dù đẹp, nhưng chiều sâu vẫn là tả tâm trạng. Tôi yêu thơ Bùi Quang Thanh giống như khi sau Tết, thấy đám ruộng mình vừa cấy trước Tết đã bén rễ: Lúa ríu chân cò chuyển sắc xanh/ Chiều qua nhỏn mạ mới chia nhành/ Dấu chân người cấy chưa trong nước/ Đã bén duyên đời những mong manh (Ý xuân)
Hoặc là: Thong thả kéo cày, trâu đủng đỉnh nhá cỏ non/ Đất uể oải phơi lườn cong thiếu phụ/ Lúa sau rét đỏng đảnh đỏi sinh nở/ Yếm tơ non hấp hé cuối chân đòng… (Đỏng đảnh Giêng hai). Câu nào cũng tài, cũng gợi, cũng sống động vô cùng. Khi bước chân người cấy vừa rời khỏi ruộng, còn vẩn bùn, nước còn chưa trong hẳn, thế mà nhỏn mạ đã bén rễ, chia nhành, mà cò đã về trong bước chân líu ríu, duyên đời đã bén…
Phải là người nông dân thực thụ, mùa này sang mùa khác nhìn sâu vào từng góc bờ, bụi lúa, màu nước mới viết được như thế. Khổ thơ không nói đến mùa xuân, đến sức sống mà cái sức sống mùa xuân nó dào dạt, nó rạo rực lan nhanh trông thấy. Nhưng đây không phải bài thơ về canh nông. Tôi tin Bùi Quang Thanh là một thợ cày, thợ cấy chính hiệu, một lão nông tri điền, đồng thời là một thi sĩ đa cảm, một thợ cấy tài tình trong tình yêu, vào trái tim người con gái.
Cái mong manh rồi sẽ bền chặt, tốt tươi. Tôi tin tình yêu của Thanh, thơ của Thanh sẽ chặt bền, tươi tốt.
Tôi tin, Bùi Quang Thanh sống vào thời Hoài Thanh, Hoài Chân làm Thi nhân Việt Nam, chắc chắn, nhiều bài thơ của anh sẽ được tuyển chọn./.
Xuân 2025
N.S.Đ