Núi Nam Giới còn có tên Quỳnh Viên được gọi là Đệ nhất danh sơn không những kì vĩ mà còn có vị trí địa lý hết sức đặc biệt. Nằm ngay bên bờ Nam cửa Sót rộng lớn, dáng núi uy nghiêm như một con đại bàng khổng lồ lao ra đại dương, sẵn sàng thách thức với phong ba bão táp, hiên ngang trước một trong những tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới từ cổ xưa. Tạp chí Hồng Lĩnh số 228 tháng 8/2025 trân trọng giới thiệu bài viết “Nam Giới dấu tích của Phật giáo Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Vượng
Núi Nam Giới còn có tên Quỳnh Viên được gọi là Đệ nhất danh sơn không những kì vĩ mà còn có vị trí địa lý hết sức đặc biệt. Nằm ngay bên bờ Nam cửa Sót rộng lớn, dáng núi uy nghiêm như một con đại bàng khổng lồ lao ra đại dương, sẵn sàng thách thức với phong ba bão táp, hiên ngang trước một trong những tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới từ cổ xưa.
Trong lịch sử Việt Nam không ít lần các thương gia, nhà quân sự, những kẻ lưu đày, chạy loạn, hay các nhà truyền đạo... trên đường thực hiện những cuộc hải hành dài ngày đã dừng chân lại đây vì mê hoặc bởi danh lam linh địa này, hoặc bởi nhiều lí do khác nhau, nhưng cuối cùng họ đều nhận được ân huệ của đất trời Nam Gới.
Chả thế mà trong "Minh hương cẩm tú" của Lê Thánh Tông viết về 13 cửa biển của đất nước ta có câu: "Di miếu man tuyền kim Vũ Mục/ Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên" có nghĩa: "Di miếu còn truyền nay Vũ Mục/ Danh sơn vẫn nhắc tới cổ Quỳnh Viên". Vũ Mục chính là tướng Lê Khôi, cháu ruột Lê Lợi, năm Thái Hòa thứ 2 (1444) đem quân chinh phạt Chiêm Thành tuy giành được chiến công nhưng không may bị thương nặng, và ông đã thanh thản chọn Nam Giới để gửi lại thân xác của mình.
Nửa đầu thế kỉ XVII giáo sĩ Alexandere de Rhodes (Đắc Lộ) trên đường từ Bắc vào Nam truyền đạo, khi thuyền đến Nam Giới thì gặp bão tố đánh dạt vào cửa Sót trôi ngược lên sông Hộ Độ. Tại đây ông đã truyền đạo Ki tô giáo cho người bản địa. Đó chính là Giáo xứ An Nhiên thuộc địa bàn phường Thạch Hạ, Thành phố Hà Tĩnh (cũ), nơi mà được nhắc đến như là Giáo xứ tiên khởi ở Hà Tĩnh.
Lễ hội Lê Khôi (2017)
Hay như người Bồ Lô, còn gọi là người Nam Đảo không rõ xuất xứ từ đâu, đến vùng Nam Gới từ giai đoạn nào, và vì lí do gì họ đến ở đây? Chỉ biết đặc điểm nổi trội dễ nhận thấy về chủng tộc thường có vóc dáng khô gầy, tóc quăn, da đen, sinh hoạt chủ yếu trên thuyền bằng nghề ngư phủ quanh quẩn ở vùng Nam Gới, tập trung nhiều từ cửa Sót đến cửa Nhượng. Họ chỉ chịu lên bờ định cư khoảng chưa đầy 50 năm lại nay.
Từ đó ta có thể suy luận cuốn Nguồn gốc Phật giáo Việt Nam do GS. Lê Mạnh Thát biên soạn, thì Nam Giới từ xa xưa thuộc đất Chiêm Thành đã từng là cửa ngõ thông thương ra các nước trên thế giới. Vào thời Vua Hùng Vương thứ XVIII có một vị thương nhân bảo Tiên Dung, hãy bỏ ra một dật vàng, năm nay ra nước ngoài mua vật quý, đến sang năm được lãi mười dật. Tiên Dung vui mừng nói lại với Chữ Đồng Tử rằng, vợ chồng ta có nhau là bởi trời mà nên, nhưng cái ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quý để sinh sống. Đồng Tử liền nghe vợ rồi cùng thương nhân lên thuyền buôn ra đi.
Trên đường qua Quỳnh Viên, trên núi có một cái am nhỏ nằm cạnh một hồ nước rộng và trong nhìn rõ tới tận đáy. Khi cho thuyền dừng lại lấy nước, thấy phong cảnh đẹp, Đồng Tử vào am dạo chơi. Trong am có một tiểu tăng tên là Phật Quang giảng pháp hay quá nên Đồng Tử ở học đạo, rồi đưa vàng cho thương nhân tiếp tục thương hồ.
Đến lúc thương nhân trở lại đó đón Đồng Tử thì thì Đồng Tử đã đắc đạo nên nhà sư bèn tặng cho một cây gậy cùng một cái nón và bảo: "Các việc linh thông đều ở đó rồi". Đồng Tử trở về đem câu chuyện kể với Tiên Dung, không ngờ Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ cả quán chợ, nghề buôn, cùng chồng du phương hành đạo.
Chuyện Tiên Dung - Chữ Đồng Tử được Lê Mạnh Thát đưa ra rất nhiều dẫn chứng đầy thuyết phục, xem đó là những Phật tử đầu tiên của nước ta. Đồng thời ông cho rằng, Nam Giới chính là cái nôi của Phật giáo Việt Nam chứ không phải ở Luy Lâu sau này.
Trước mắt ít nhất ta đã xác định được Nam Gới không phải là một ngọn núi thần thoại mà là một ngọn núi có thật. Từ những dấu vết còn tồn tại đến ngày nay có thể khẳng định Cửa Sót về Nam thuộc vùng đất Chiêm Thành, nhưng cần lưu ý từ Bắc sông Lam trở ra hiếm khi ta tìm thấy có di chỉ nào liên hệ đến nền văn hóa Chiêm Thành. Ngược lại từ Nam sông Lam trở vào, cụ thể là Nghi Xuân, Lộc Hà, Thạch Hà (cũ) các nhà khảo cổ học đã tìm thấy rất nhiều di chỉ lên quan với văn hóa Chăm Pa.
Tại địa bàn xã Thạch Khê có hai giếng nước hình vuông xây theo kiểu Chiêm Thành tồn tại trước hai ngôi chùa đều có tên Thanh Quang. Ngôi chùa tọa lạc tại xã Thạch Hải (cũ), trong ngôi chùa có quả chuông khắc chữ "Yên nhân tự chung" nên có thể ngôi chùa này có tên cổ là Yên Nhân; và một chùa Thanh Quang khác tọa lạc trên rú Mốc thuộc xã Đỉnh Bàn (cũ). Trong khuôn viên hai ngôi chùa người ta tìm thấy nhiều mảnh vỡ gạch ngói và công cụ gia đình như chén, bát, có những mảnh vở mỏng với niên đại từ thế kỉ thứ I, thứ II trước công nguyên.
Nằm giữa rú Mốc và Nam Gới có hai địa điểm được gọi là cửa Nước. Giữa hai cửa Nước này có một bàu nước dài khoảng 1km. Có giả thiết cho rằng đây là cửa Nam Giới ngày xưa trước khi sông Lam đổi dòng hình thành lên với dụng ý, Phật giáo truyền vào nước ta từ phía Nam qua trung gian nhà sư Phật Quang. Nhà sư này có thể là người Ấn Độ đang tìm cách truyền bá Phật giáo tại núi Quỳnh Viên! Vì rằng, truyện kể: Đồng Tử lênh đênh ra khắp nước ngoài (Phù du hải ngoại). Rất có thể vùng núi Nam Gới thời đó hoàn toàn thuộc Chiêm Thành, hoặc mới sáp nhập vào bản đồ nhà nước Văn Lang?
Dẫu sao trên núi Nam Giới vẫn còn dấu tích của một ngôi am, thờ công chúa Tiên Dung - Chư Đồng Tử đã tu hành đắc đạo ở đây; và một ngôi chùa cổ cho là được nhà sư Phật Quang trụ trì ở đó để hành đạo. Với nhà sư Phật Quang còn được nhiều bậc cao niên trong vùng nhắc tới với tên gọi thân mật là sư Khoai. Bởi nhà sư đã có công mang giống cây khoai lang từ xứ khác đến đây dạy cho dân cách trồng lấy củ.
Đây là điều ta cần để đi sâu vào tìm hiểu về mối quan hệ giữa nguồn gốc xuất xứ của Phật giáo Việt Nam với địa danh Nam Giới.
Trước mắt chúng ta cần đánh giá vai trò quan trọng của núi Nam Giới không đơn thuần chỉ là một thắng cảnh tự nhiên, mà phải thay đổi tư duy xác định ngọn núi như một bảo tàng lịch sử nói chung và bảo tàng Phật giáo nói riêng xếp vào dạng đặc biệt. Để từ đó tập trung nghiên cứu, bảo vệ, tôn tạo và tái tạo môi trường thiên nhiên, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đồng thời thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.
Một tín hiệu đáng mừng là sau khi dự án mỏ sắt Thạch Khê tạm dừng khai thác, các mỏ đá ở Nam Giới được đóng cửa, nạn chặt phá rừng và săn bắt động vật hoang dã cũng đã chấm dứt hoàn toàn mới chưa đầy 10 năm lại nay nhưng môi trường tự nhiên của Nam Giới đã hồi sinh nhanh chóng. Đó cũng là một cách gián tiếp để bảo vệ làm giảm thiểu sự xâm hại đến các di tích không riêng của Phật giáo mà cả quần thể di tích Lịch sử - Văn hóa qua nhiều thời cuộc thăng trầm trên núi thiêng.
Ít nhất khi quay lại đây ta có thể phát hiện thấy những đàn khỉ vàng chạy nhảy tung tăng, những con trăn gấm to như cột nhà cũng bắt đầu xuất hiện, nhiều đàn dê nuôi thả rông trên núi bất ngờ quay lại với cuộc sống hoang dã. Trong lúc chủ nhân nuôi nó cũng đã ý thức được những giá trị của rừng, nên không tổ chức săn lùng nữa.
Từ ngàn xưa đến nay, Nam Giới được xem như một ngọn núi đầy quyền năng, có thể sắp xếp lại trật tự của thiên tai, chiến tranh... Để bảo vệ cuộc sống hạnh phúc an yên cho dân lành; và núi cũng thức tỉnh mọi người luôn biết cách vượt qua mê khổ, mà tinh tấn tạo đức cho đời. Có lẽ vì mối liên hệ đó, nên khi chết người dân quanh vùng thường chọn hướng núi linh ứng này để gác đầu lên đó, mà ru yên giấc ngủ vĩnh hằng!
Tháng 7/2025
N.N.V