26-01-2025 - 22:51

Mạn đàm về hình tượng rắn và ý nghĩa của tranh dân gian

Tạp chí Hồng Lĩnh số Tết Ất Tỵ (221+222) trân trọng giới thiệu bài viết “Mạn đàm về hình tượng rắn và ý nghĩa của tranh dân gian” của Vũ Mai Thơ

Trong quan niệm của dân gian, về mặt tâm linh, cư dân cần có sự nương nhờ vào một tôn giáo hay tín ngưỡng nào đó để có sự bảo hộ, chở che, thị uy thế giới vô hình như yêu ma, quỷ, quái... Thế giới tâm linh thuộc phạm trù phi vật thể, vô hình nên khi được “hữu hình hóa” (có hình, trở thành hình tượng) thì được coi là “linh nghiệm ứng- biến”. Trải theo thời gian, những câu chuyện “hữu hình hóa” sẽ trở thành truyền thuyết, huyền sử minh chứng cho ý nghĩ của việc thờ cúng. Những câu chuyện tâm linh được “hữu hình hóa” trong dân gian rất nhiều. Nhân năm Ất Tỵ sắp đến gần, người viết chỉ xin góp nhặt về chuyện rắn.

Rắn trong lịch sử văn hóa tín ngưỡng Việt Nam ở thời Lý có Linh Lang Đại vương là con của vua Lý Thái Tông. Người có công ba lần cưỡi voi ra trận đánh tan giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi. Linh Lang được tôn thờ và kể những câu chuyện huyền bí. Vị Hoàng tử luôn cống hiến sức mình để bảo vệ bờ cõi, giữ ấm no cho dân nước Việt được thần thánh hóa. Huyền sử ghi lại Linh Lang có phần giống Thánh Gióng nhưng là một nhân thần. Trước khi hóa, Linh Lang biến thành con rắn trắng trườn xuống Hồ Tây. Bởi vậy, hoàng tử Linh Lang có phép làm mưa, giải trừ đại hạn, giúp cho mùa màng tươi tốt. Đền Voi Phục, một trong Thăng Long tứ trấn là nơi thờ Linh Lang Đại vương, tại đây có ghi lại huyền tích của ngài.

Thời Trần, trong Lĩnh Nam Chích quái có câu chuyện về người học trò đặc biệt của thầy Chu Văn An - “vạn thế sư biểu” (muôn đời gọi là thầy) vốn là con của thủy thần. Nghe danh thầy Chu Văn An, ngày ngày từ dưới đầm (chằm) nổi lên theo học. Năm đó, hạn hán, thầy Chu Văn An nhờ người trò của mình vì dân làng hãy giúp làm mưa. Biết luật trời nghiêm ngặt, nhưng người học trò thấy thầy Chu Văn An gầy ốm, mất ăn, mất ngủ vì thương dân lành, nên đã dùng thuật lấy nghiên mực để hóa ra mưa rồi biến mất… Đêm đó, mưa to, nước mưa đen như mực, nhưng nhờ vậy, dân làng thoát cảnh chết đói, chết khát, đồng ruộng thoát đại hạn mà tốt tươi trở lại. Cũng có tích ghi là con của thủy thần là hai anh em, sáng hôm sau xác nổi lên ở đầm là một con thuồng luồng hay con rồng (đều là biến thể của rắn) do bị Thiên lôi đánh chết vì làm lộ thiên cơ. Huyền sử gắn liền với sự tích đầm mực và miếu Gàn (Di tích Quốc gia) ở Linh Đàm, Hà Nội ngày nay.

Thời Nguyễn, sách “Đại Nam thực lục” có chép chuyện vua Gia Long chạy lánh nạn, trong đêm tối được đàn rắn cõng thuyền vượt biển đi tới Hà Tiên, Phú Quốc. Sau này, hình tượng mãng xà được vua Minh Mạng chọn để chạm khắc trên huyền đỉnh, một trong cửu đỉnh đặt tại Thế miếu, được hiểu như sự tri ân của triều Nguyễn với loài rắn (?)

Trong đạo mẫu, rắn được gắn với Mẫu Thoải phủ, Sơn Trang, trong tranh quan Hoàng là vật cưỡi, thần Lốt (thần rắn) trong hình dạng tam đầu, cửu vĩ (ba đầu, chín đuôi). Thần Lốt có 3 đầu, 9 đuôi để biểu thị cho “thông tri tam giới”, đuôi lông vũ biểu hiện cho thiên phủ, khuôn mặt biểu hiện cho nhân gian, địa phủ, còn vây, vẩy biểu hiện thoải phủ… Ông Lốt tam đầu cửu vỹ ngoài đạo Mẫu thì còn gắn với việc cầu mưa… Dân gian làm mã ông Lốt cùng với mã ngựa đem thả ở sông để cầu mưa…

Sơn Trang - Nam Chi vẽ lại phong cách tranh Hàng Trống

Như vậy có thể thấy, tín ngưỡng dân gian luôn “hình nhân hóa” rắn gắn vào những nhân vật cụ thể trong lịch sử, hoặc được gán ghép với những biểu thị bằng hình thức, quy định mầu sắc rõ ràng và không nằm ngoài những đặc điểm, đặc tính của loài rắn… Trong tự nhiên, rắn có hai loại, loại có nọc độc và không có nọc độc. Loại có nọc sẽ được biểu trưng cho cái ác, loại không có độc thường là rắn nước, biểu trưng cho sự hiền lành, tốt bụng, thậm chí khi là yếu đuối cần được con người bảo vệ... Kết hợp cả hai loại, rắn được dân gian hình tượng hóa có sức mạnh giúp trừ gian, diệt ác. Là loài sống ở đầm, sông, nước, rắn chủ về thủy cung, cầu mưa, tạo mưa chống hạn giúp cư dân nông nghiệp thoát hạn hán... Dân gian cũng dùng mầu ngũ sắc, âm - dương, ngũ hành, kim/trắng – mộc/xanh- thủy/đen- hỏa/đỏ- thổ/vàng để biểu thị vũ trụ, rắn có thể xuất hiện ở khắp mọi nơi…

Từ truyền thuyết, huyền sử đến thờ phụng. Như trên đã nói, truyền thuyết, huyền sử chính là những minh chứng cho ý nghĩa của việc thờ cúng. Nhưng thờ cúng như thế nào? Để có sự linh ứng? Dân gian quan niệm “vạn vật hữu linh”. Chẳng hạn, trong việc dựng cây nêu ngày Tết, theo sự tích cây nêu, khi dựng nêu, người ta sẽ dùng một tấm vải đỏ để tượng trưng cho chiếc áo cà sa của Phật. Bóng áo treo trên cây nêu cao che đến đâu là giới hạn bảo vệ cư dân mà quỷ không được xâm phạm. Ngoài ra, các thức khác như dùng loại cây lá gai treo lên cây với ý nghĩa dùng làm sát thương quỷ dữ, treo các vật phát ra âm thanh khi gió thôi như khánh, mõ để xua đuổi (nhắc nhở) quỷ, hay rắc vôi bột quay gốc cây, vôi bột gặp không khí ẩm sẽ sinh nhiệt khiến cho không “con vật” nào dám lại gần, trèo lên cây nêu v.v... Như vậy, người ta có thể dùng tượng, tranh vẽ, với các mầu sắc khác nhau để biểu thị sự "hiện diện" của thần linh, những "linh vật" cũng được "tái hiện" bằng nhiều cách để được sử dụng "làm pháp", "làm phép", có sức mạnh trừ tà ma, trấn quỷ như đã có trong truyền thuyết, huyền sử.

Nói về tranh vẽ, có một dòng tranh dân gian ra đời vào khoảng đầu thế kỷ 16, tranh Hàng Trống (ban đầu được gọi là tranh tự tháp) do thị dân đô thành Thăng Long với nghề in và vẽ thủ công tinh xảo thực hiện. Tranh dân gian Hàng Trống có nhiều nội dung và chủ đề, một trong số đó là tranh thờ phục vụ tín ngưỡng dân gian. Khi ở giai đoạn cực thịnh, người các vùng lân cận, từ miền ngược về Thăng Long để đặt vẽ (mua) tranh về thờ, nhất là những dịp Tết đến, xuân về. Đặc điểm của việc sản xuất dòng tranh này, khác với tranh dân gian Đông Hồ in các bản khắc mầu trước, sau đó in bản nét, tranh Hàng Trống, in nét trước vẽ mầu sau. Một bức tranh Đông Hồ có rất nhiều bản khắc để in nét, in mầu, còn tranh Hàng Trống chỉ có bản in nét, màu thì phải vẽ tay toàn bộ. Bởi vậy, có thể dễ dàng nhận ra sự khác nhau ra của hai dòng tranh này, tranh Hàng Trống có sự ke chuẩn, khớp giữa mầu và nét hơn, đồng thời lại có sự mở rộng hơn cho sự sáng tạo của người làm ra bức tranh bởi họ có thể linh hoạt trong việc sử dụng mầu sắc, lối vờn, chuyển trong từng mảng mầu. Nghề làm tranh Hàng Trống sở dĩ có tên như vậy bởi đó là một trong những phố thị làng nghề ở Thăng Long, bí quyết làm tranh được gìn giữ gia truyền từ đời này sang đời khác. Cho đến ngày nay chỉ còn duy nhất gia đình nghệ nhân Lê Đình Nghiên duy trì, năm nay ông cũng đã 75 tuổi, ông nói: Vẽ tranh Hàng Trống cực kỳ công phu, mất nhiều công sức, thời gian và phải qua nhiều công đoạn. Bởi vậy có thật yêu và đam mê mới làm được. Dù Nghệ nhân Lê Đình Nghiên không có nhiều lạc quan tin tưởng đối với sự lưu truyền của dòng tranh này trong đời sống đương đại hiện đại. Nhưng mạch nguồn dân tộc, sức sống trong dân gian vẫn luôn âm ỉ chảy mãi... Người ta nói "nghề chọn người", quả không sai, khiến cho ta có sự kỳ vọng nhiều hơn, khi có một chàng trai  còn rất trẻ mới sấp xỉ 30, tay ngang đeo đuổi tiếp nối và sáng tạo dòng tranh dân gian này... Chàng trai ấy tên Nam Chi, những sản phẩm do anh làm ra hiện nay rất được ưa chuộng nhờ mạng xã hội. Nam Chi luyện vẽ theo phong cách tranh dân gian Hàng Trống, đạt đến độ tinh tế, thật khó nhận biết được đâu là tranh sáng tác, đâu là tranh vẽ lại theo mẫu cũ. Dựa trên nền tảng của tranh dân gian, Nam Chi đã sáng tạo thêm những kỹ thuật vẽ mới như dát vàng trên tranh giấy. Nhân năm Ất Tỵ, Nam Chi dành thời gian sáng tác bức vẽ Linh Lang hóa giảo long, và Giảo long học đạo theo huyền tích xưa... và chia sẻ: “Tôi và tranh dân gian dường như là có một cái sự kết nối âm thầm nào đó...".

Tranh dân gian cũng là một phần của văn hóa, một phần của đất nước. Đó cũng là nơi để gìn giữ bảo tồn những giá trị truyền thống của Việt Nam, ẩn sau những mầu sắc, đường nét đó là lớp ý nghĩa, lời cha ông đã răn dạy... Những giá trị lịch sử mà người trẻ cần biết cần tìm hiểu. Thật mừng, khi lớp người trẻ tuổi có suy nghĩ như vậy, chúc em gặt hái thành công hơn nữa trên con đường tiếp nối truyền thống văn hoá dân gian Việt Nam!                             

V.M.T

. . . . .
Loading the player...