21-05-2025 - 07:10

Giới thiệu truyện ngắn Cất rớ đêm của Nhà văn Phan Trung Hiếu

Tạp chí Hồng Lĩnh Số đặc biệt - Số 223+224 (tháng 3+4/2025) kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền nam thống nhất đất nước và Tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025) trân trọng giới thiệu truyện ngắn CẤT RỚ ĐÊM của nhà văn Phan Trung Hiếu

Cất rớ đêm

 

Truyện ngắn

PHAN TRUNG HIẾU

 

Con hói trước làng tôi chẳng biết có tự bao giờ. Cứ như lời cụ Oanh mốc thì do người ta lấy đất đắp đê - mộ của con Rồng đất mà thành. Có lẽ thế thật, con hói chạy dọc song song với bờ đê. Và hình như đê La Giang cao bao nhiêu thì con hói lại sâu chừng ấy. Khi tôi lớn lên, con hói đã cũ kỹ lắm rồi. Giữa lòng hói dày sít những đám bèo tây bèo ta, cỏ lác và rong rêu đuôi chồn. Hai bên bờ là những hàng phi lao cao lớn và mấy bụi tra hoa vàng đổ cành lòa xòa trên mặt nước. Dưới những hốc cây trơ rễ là vô vàn hang hốc bí hiểm.

 

Con hói trầm lặng hoang vu kéo đến trước vườn nhà cố Lội thì đổi khác, phình rộng ra thành đầm. Đầm sen nhà cố Lội mới đầu hạ đã tưng bừng nhú búp nở hoa. Hương sen thơm lừng khắp xóm. Ngôi nhà tranh thấp bé của cố Lội được ướp trong hương thơm quyến rũ ấy. Cố Lội độ gần bảy mươi, dáng người vạm vỡ, da thịt đỏ au, mái tóc bạc sớm trắng như cước. Trông cụ đứng ngắm sen hay câu cá ở cầu ao cứ ngỡ như một tiên ông giáng trần. Đầm sen mang tên cố nhưng vẫn là chung của làng. Chúng tôi đến đó mà câu cá hay đi cất rớ đêm để kiếm về những con rô già vảy cứng như ngói úp hay những chú tôm càng đen bóng.

Trăng non đầu tháng. Cơm nước xong, chị Hiền bảo tôi:

- Tối nay, em có thích theo chị đi cất rớ đêm không?

Tôi mừng quá, nèo thêm:

- Chị cho em Hường cùng đi nữa nhé!

Chị gật đầu liền. Thực ra, không có chúng tôi hộ tống chưa chắc chị đã dám đi một mình. Chị hay sợ ma. Chị Hiền đã xếp xong đám rớ, luồn cây sào nứa có mấu giữ một đầu nhấc cả đám lên. Rớ cất tép được làm thật đơn giản. Hai thanh nứa được uốn cong buộc chéo hình chữ thập làm gọng. Đáy rớ là một tấm màn vuông mỗi chiều độ hai gang tay. Người ta hay dùng loại màn cũ để làm đáy rớ. Một cái màn xé ra được bao nhiêu là đáy rớ. Thế nhưng cái giống rớ ngâm lâu trong nước lại chóng hỏng. Có những chỗ bị bục hay bị vướng gai cào rách phải vá víu như quần áo của người nghèo.

Minh họa: TRÍ DŨNG

Mẹ tôi đang quấy cám lợn, nhắc: “Gạo phải rang lên cho thơm, tôm tép nó mới chịu vào chứ!”. Phần thì ngại phải vào bếp nóng nực, phần thì quen với cách rắc mồi thính sống nên chị Hiền tôi qua quýt: “Thế này cũng được mẹ ạ!”. Mấy chị em kéo nhau đi. Cái chồng rớ trên chiếc sào nứa sau vai chị Hiền lúc la lúc lắc. Con Hường giành mang cái rá, tôi thì cầm bơ gạo cứ thế mà bám theo chân chị. Thi thoảng gặp con chuột chù miệng lít chít chạy vụt qua đường, chị Hiền tôi lại nhảy dựng lên cứ như gặp phải ma.

Dừng chân trước đầm hói cố Lội, chị Hiền đặt đám rớ ấy xuống đất, bảo tôi đưa bơ gạo. Chị vốc một nhúm nhỏ trệu trạo. Rồi chị căng đáy rớ ra, nhổ toẹt vào đấy một bãi nước gạo trắng đùng đục. Eo ôi, nhìn kinh thế mà lũ tôm tép lại thích được cơ chứ! Chị Hiền dùng đầu sào khoắng một vùng nhỏ để dọn chỗ đặt. Rồi thì cả đám rớ lẫn những bãi nước gạo cũng đã nằm yên trong nước. Những đầu gọng chữ thập chỉ nhô lên khỏi mặt nước độ vài đốt ngón tay, im lìm như những cọng cỏ dưới ánh trăng nhàn nhạt đầu tháng.

Chúng tôi bẻ lá phi lao trải xuống vệ cỏ, ngồi đợi. Hương sen thơm ngát dưới đầm dâng lên. Con Hường níu vai tôi thì thầm: “Anh bắt hộ cho em con bọ vừng đi!” Ừ nhỉ! Cứ chăm chăm vào lũ tôm tép và mê mẩn hít hà hương sen mà quên khuấy mất đám bọ vừng đang bay rì rì quanh những đám phi lao. Ban đêm, cứ nhìn thấy cành nhỏ nào nổi cộm lên những cục u dị thường hay những chấm đen to như chiếc bật lửa lủng lẳng vào những tán lá phi lao mảnh mai như những sợi tóc, chắc là những con bọ vừng. Ban ngày, bọ vừng có màu nâu bóng, kể cả đôi cánh cứng như hai mảnh vỏ nghêu úp bên ngoài cho tới lớp cánh lụa mỏng bên trong như cánh ve. Những cái chân cũng màu nâu đầy những móc nhỏ li ti. Lũ trẻ trong làng bắt bọ vừng làm chong chóng. Buộc vào cổ chú bọ vừng một sợi dây nhỏ, cách đó một gang tay buộc tiếp một quả cà độc dược chín màu đỏ. Lắc mẩu dây còn lại vài cái làm đà, chẳng biết cu cậu bay kiểu gì mà cả bọ vừng và quả cà đều xoay tít mù như cánh quạt. Chẳng phân biệt nổi nâu, đỏ ở đâu nữa. Chơi chán, có đứa còn đem nướng. Thằng Cung cầm chắc với tôi là béo và thơm chả khác gì món cào cào rang. Tôi thì sợ, không dám ăn vì nghĩ cái giống bọ hung bẩn thỉu với bọ vừng chỉ là anh em một nhà. Đu lên một cành phi lao, tôi chộp được một chú lẩn mình trong đám lá um tùm rồi tụt xuống đem cho em gái. Được con bọ vừng, mắt con bé sáng long lanh. Chị Hiền có vẻ không thiết tha gì với lũ bọ vừng, chống gối đứng dậy sốt ruột: “Thôi nào, ta cất rớ lên xem thử đi!”. Chị lại vốc một nhúm gạo nữa, nhai ngỏn ngoẻn rồi thò cái sào cất cất rớ đầu tiên. Cái rớ nhẹ tênh rời khỏi mặt nước, những hạt nước từ đáy rớ nhỏ long tong. Chả được gì cả ngoài dấu vết bãi nước gạo lờ nhờ những hạt tấm nhỏ chắc nhai không kỹ chưa kịp tan trong nước. Tôi lau chau: “Tại chị không rang gạo lên cho thơm, mẹ bảo mà không nghe!” Con Hường được đà cùng bép xép chen vào: “Hay chị làm động rớ, nó chạy mất?”. Chị Hiền không nói gì, nhổ bồi thêm một bãi nước gạo vào cái đáy õng nước, đặt vào chỗ cũ và dịch sang nhắc tiếp cái rớ cạnh đó chỉ hơn một sải tay. Lại hồi hộp. Tay chị kéo có vẻ nhanh hơn. Có tiếng nhảy lóc xóc. Chị tôi reo khẽ: “Một chú tôm càng bự nhé!” Kéo đến ngang bờ, chị tôi đã nhanh tay quơ vào đáy rớ. Con tôm như sực tỉnh, cong mình búng loạn xạ. Không thoát được, nó nằm gọn trong cái rổ con Hường cầm. Tôi sờ tay vào đụng phải cái vỏ tôm cứng nham nháp, nhớt lạnh. Chị Hiền lấy mấy nhành phi lao tấp lên mặt rổ. Chị bảo làm thế để tôm khỏi nhảy ra. Đợt đầu, cả thảy được năm con nhưng toàn là tôm lợ, chỉ bé bằng ngón tay út, thân tôm hơi vàng đục như màu đáy rớ. Nằm trong rổ, chú tôm càng đen đáng mặt gọi là anh cả. Mấy con tôm nằm trong rổ không yên, cứ nhảy lách xách rộn rạo cả lên. Riêng “anh cả” có vẻ an phận, xoài những đôi càng dài ngoẵng ra chiều trầm tư nghĩ ngợi.

Độ hơn một tiếng sau, khi cái bơ gạo tôi cầm sắp trơ đến đáy, mớ tôm trong rổ con Hường cặp kè kè bên hông xem chừng đã nằng nặng, chị Hiền thôi không nhai gạo nữa. Cái miệng nhem nhuốc những quầng trắng dính ở môi nói với chúng tôi: “Ta về thôi! Trăng sắp lặn rồi!”. Tôi biết, chị lại sợ ma. Chị cất rớ lên, giũ sạch từng cái và xếp lại thành chồng rồi quảy lên vai.

Bên kia đầm, ngọn đèn dầu loe hoe trong nhà cố Lội đã tắt. Gió nồm nam hây hẩy, những đóa sen không ngủ vẫn ngào ngạt đưa hương. Ước gì có những chiếc rớ kì diệu nào đó có thể cất được hương sen ấy mà mang về nhà. Đêm ấy, tôi mơ thấy mình bỗng dưng có cánh như những con ong bay là là giữa đầm sen.

 P.T.H

 

 

. . . . .
Loading the player...