26-05-2025 - 07:38

Giới thiệu trích đoạn Ký ức chiến tranh của Tác giả Vương Khả Sơn

Tạp chí Hồng Lĩnh Số đặc biệt - Số 223+224 (tháng 3+4/2025) kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền nam thống nhất đất nước và Tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025) dành thời lượng đặc biệt để giới thiệu các bài viết của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình và sáng tác của các văn nghệ sĩ qua các thế hệ đã đạt giải cao của Trung ương, khu vực, địa phương; những tác giả đã có nhiều gắn bó, cống hiến cho VHNT tỉnh. Xin trân trọng giới thiệu!

"Xẻ dọc Trường Sơn..."

(Trích Ký ức chiến Tranh)

 

VƯƠNG KHẢ SƠN

 

 

..."Sơn! Sơn! Dậy đi! Đơn vị đi xa rồi!" Tôi choàng mở mắt, hoảng hốt... Thì ra đó là anh Đinh Bạt Chương (Thanh Yên, Thanh Chương, Nghệ An), khẩu đội phó đang quay lại tìm chúng tôi (sau này anh hy sinh trong trận tôi bị thương vào trưa ngày 18-5-1972). Đảo mắt nhìn quanh một lượt, tôi thấy trước và sau có rất nhiều người cùng tư thế giống mình. Chương giúp vác bàn đế cối 82 và kéo tôi đứng dậy. Bước đi, tôi kịp quay lại nhìn vào chỗ vừa ngồi, hơi nước bốc lên lãng đãng như sương. Nhiệt từ cơ thể tôi ngấm vào bùn, lúc ấy mới toả ra.

Khoảng 9 giờ sáng, chân trần, tay xách dép, mình đầy bùn đất, tôi thất thểu vào tới binh trạm 5 - binh trạm đầu tiên để từ đây, chúng tôi bắt đầu "xẻ dọc Trường Sơn". Ngày ấy, tôi vốn là một cậu học sinh mảnh mai, ốm yếu với cân nặng không đầy 47 kg, sức khoẻ "B1" và còn thiếu ba tháng nữa mới đầy tuổi 18. Ba tháng huấn luyện tân binh chưa đủ tiềm năng thử thách để vượt qua khó khăn, gian khổ ban đầu!

Hai ngày nghỉ ngơi, tắm giặt, phơi phong quần áo tại binh trạm, chúng tôi đã lại sức. Ở đây, hàng ngày các loại máy bay trinh sát L19, OV10, A3J vè vè trên đầu như ong suốt từ sáng đến tối, tạo nên một không khí chiến trường căng thẳng, sôi động. Nấu bếp "Hoàng Cầm" nếu không cẩn thận, chỉ cần một tia khói nhỏ bay lên để lũ trinh sát này phát hiện được thì hậu quả sẽ khôn lường. Trước hết sẽ là các vụ không kích bằng bom, rốckét và đạn 20 li của "Thần sấm", "Con ma" (các loại chiến đấu cơ tiêm kích F105, F4); không lâu sau đó, sẽ là hàng loạt phi vụ B52 rải thảm, huỷ diệt (chúng tôi đã được nghe kể và sau đó là nạn nhân trực tiếp của tình huống trên ở Binh trạm 36).

Ngày thứ tư, anh nuôi dậy từ 4 giờ sáng để lo cơm nước cho bộ đội (ở đường dây 559, không có anh nuôi cố định mà là cắt phiên nhau nấu ăn hàng ngày, mỗi ngày hai người). Bởi vậy, sau mấy tháng hành quân trên đường Trường Sơn, chúng tôi anh nào cũng biết nấu cơm ngon, dẻo sau những thất bại ban đầu như cháy, khê, nhão nhoét...

Đúng 7 giờ, bộ đội bắt đầu xuất phát. Ở rừng nên mặt trời đến muộn. Ai cũng hăm hở. Có vào các binh trạm Trường Sơn mới biết sức mạnh của chiến tranh nhân dân thật kỳ diệu. Cuộc chiến đã huy động được hàng triệu lượt người náo nức ra trận. Đó là cái khí thế của "Những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến. Như tình yêu nối lời vô tận" (Phạm Tiến Duật). Trung đoàn 271 chúng tôi khi hành quân trên đường Trường Sơn được mang biệt danh là "Đoàn 2005". Trước và sau chúng tôi còn biết bao đoàn, đã và đang đi...

271 khi vượt Trường Sơn, 271 là trung đoàn thực binh, với trên 2600 người. Ngoài lương thực, thực phẩm dự trữ và quân, tư trang cá nhân, còn phải mang vác vũ khí, khí tài nặng từ ĐKZ 75 ly, 12,7 ly, cối 82, cối 60, đại liên, B41, B40, máy thông tin 2W, 15 W... Bởi vậy nên thường bị các đoàn như "2006", "2007" vượt lên trước. Đó là các đoàn thuộc Quân khu 2, Quân khu 3, Quân khu Việt Bắc, quân khu Tả Ngạn... gồm hầu hết lính ở các tỉnh từ Thanh Hoá, Hà - Nam - Ninh trở ra. Họ mang vác nhẹ, chỉ có ba lô quần áo và bao gạo trên vai. Trẻ, sung sức, cùng một quyết tâm ra trận nên lúc nào cũng chen lấn để vượt đoàn chúng tôi. Bởi vậy, đôi lúc, đã có những xích mích nhỏ giữa chúng tôi với họ. Dù sao đó cũng là những kỷ niệm đáng nhớ và đáng... yêu trên chặng đường hành quân đầy thử thách, hy sinh của những năm tháng hào hùng đó.

Đến binh trạm 15, lác đác đã có người bị sốt rét. Có thể nói những anh chàng nào to mập, trông khoẻ mạnh, sung sức nhất xem ra lại bị quật đổ trước tiên. Thêm một nỗi lo và gánh nặng cho những đồng chí còn lại. Bởi vì, theo quy định và quyết tâm của Trung đoàn trước khi hành quân là 100% quân số phải đến đích tập kết an toàn. Đoàn chúng tôi theo kế hoạch, phải tập kết tại Bộ Tư lệnh 470 thuộc B3 ở Tây Nguyên. Như vậy, không còn cách nào khác là buộc phải khiêng cáng những anh em bị sốt, không được gửi lại ở các binh trạm. Phải công nhận một thực tế là ai đã từng bị sốt rét mới thấy hết được sức tàn phá khủng khiếp và mau lẹ của căn bệnh quái ác đó. Chỉ vài ba ngày sốt cấp tính, người bệnh gần như không thể bước được nữa. Những cơn sốt kinh người với nhiệt độ cơ thể có khi lên tới 40, 41 độ C. Chỉ một tuần sau khi lâm bệnh thì dù đó là thanh niên khoẻ mạnh, cường tráng cũng biến thành một hình hài tiều tuỵ, suy sụp, đứng không vững nữa. Có người chỉ cần sau vài cơn co giật là trút hơi thở cuối cùng. Đó là những trường hợp bị sốt ác tính. Tôi đã đau xót chứng kiến cái chết của người bạn thân cùng trung đội là Trần Văn Mão quê ở Nghi Lộc, Nghệ An. Mới buổi chiều còn cùng tôi ăn chuối (cậu ta tìm đâu được một buồng chuối rừng chín bói) ăn xong Mão còn tặng tôi 40 đồng (tiền miền Bắc lúc đó), nói để ngày nào được ra Bắc dành mua quà cho người thân. Đêm. Khoảng 12 giờ, cậu ta lên cơn sốt cao, co giật mấy cái rồi im bặt... Mão hy sinh lúc tròn 20 tuổi. Chúng tôi mai táng Mão bên cạnh gốc một cây lim lớn rồi đánh dấu vào đó, hy vọng sau này ai đó có thể tìm lại được. Nhưng... có lẽ chẳng bao giờ hài cốt của Mão có cơ hội trở về được nơi quê cha đất tổ nữa bởi hai lý do: Thứ nhất, chúng tôi phải cuốn theo cơn lốc của cuộc hành quân thần tốc, một đi không trở lại; thứ hai là giống mối rừng ở Trường Sơn thật kinh khủng. Thi thể cậu ta sẽ bị đàn mối xông ào ào trong vài ngày là hết sạch. Ngủ rừng ban đêm, nếu bất cẩn thì sáng ra ba lô của anh chỉ còn một đống đất và súng AK thì chỉ còn lại phần thép mà thôi... Mối đã xông hết tự lúc nào!?...

... Đêm nghỉ, ngày đi thấm thoắt  chúng tôi đã đến binh trạm 36. Trước đó, đơn vị đã vượt qua đường 9, đoạn nối từ Khe Sanh (Quảng Trị) lên. Chứng tích về thảm bại trong chiến dịch Lam Sơn 719 của Mỹ - nguỵ phơi bày ra trước mắt. Xác chiến xa M41, M48 cùng xe bọc thép M113 và các loại chiến cụ khác ngổn ngang cả một bãi chiến trường. Vì phải bảo đảm bí mật đội hình hành quân nên chúng tôi phải vượt thật nhanh qua đoạn đường này (đây là binh trạm có cung đường xa nhất trong suốt chặng đường hành quân trên Trường Sơn). Mấy ngày sau đó, chúng tôi vượt sông Xê Pôn. Nước sông ở đoạn này chảy rất xiết. Các chiến sỹ công binh Trường Sơn đã lợi dụng các tảng đá chìm giữa lòng sông để bắc cầu ngầm tránh sự phát hiện của lũ trinh sát OV10 và L19 suốt ngày o o trên đầu. Tại đây, chúng tôi có một kỷ niệm khó quên. Đó là việc anh Trần Văn Khánh (Hưng Nguyên, Nghệ An) trung đội phó, khi vượt sông, do  bất cẩn trượt chân, đã làm rơi khẩu AK xuống dòng nước xiết. Cả anh và chúng tôi thay nhau lặn mò nhưng không thể nào tìm thấy. Sau sự việc đó, Khánh bị lưu Đảng và bị giáng chức từ B phó (trung đội phó) xuống làm A phó (tiểu đội phó)... Sau này trong trận đánh ác liệt tại Ngã ba Lộc Giang (Đức Hoà, Long An) vào tháng 5-1972, Khánh đã anh dũng hy sinh...

... Trạm 36 là một binh trạm nằm giữa đại ngàn Trường Sơn với bạt ngàn cây cổ thụ thuộc các nhóm gỗ quý như lim, trắc, sến, săng lẻ... Có những rừng lim hoặc săng lẻ, đi cả ngày đường không hết. Ngày ấy tôi nghĩ, sau này khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, nguồn lâm sản quý giá và phong phú chủng loại ấy sẽ góp phần làm giàu cho hai nước Việt - Lào...

Nếu ở binh trạm 5 là nơi địa đầu đối diện giữa tỉnh Quảng Bình với tỉnh Kham Muộn của nước bạn Lào thì chỗ này thuộc địa phận của tỉnh Xavanakhet. Vào đến đây mới thấy hết được sự ác liệt của Trường Sơn dưới mưa bom B52. Buổi chiều hôm ấy, sau khi cả đội hình hành quân đã tập kết đầy đủ tại binh trạm, mọi người lo cơm nước và chuẩn bị nghỉ sớm để lấy lại sức cho chặng đường hành quân ngày mai.

Đúng 7 giờ sáng hôm sau, khi chúng tôi chuẩn bị xốc ba lô và vũ khí lên vai thì máy bay địch ập đến. Tiếng gào rít xé trời của phản lực F4 "Con ma" cộng hưởng bởi thung lũng và vách núi làm đinh tai, nhức óc. Sau mấy vòng lượn, chúng bổ nhào xuống cắt bom vào cạnh đội hình hành quân. Loạt bom thứ hai vừa nổ thì mấy chiếc "Zil" chở gạo phía bên kia bốc cháy. Phát hiện được mục tiêu, chúng gọi các tốp khác lao đến đánh bồi. Bom nổ ngay sát đội hình. Có những trái rơi gần chúng tôi. Tuy nhiên, nhờ các cây cổ thụ dày đặc nên bộ đội có chỗ ẩn nấp nên thương vong không nhiều. Mặt khác, từ phía đông, trận địa cao xạ 37 và 57 ly của các đơn vị phòng không bảo vệ binh trạm bắn mãnh liệt đã đẩy giạt lũ "F4" ra xa. Sau trận không kích dữ dội ấy, Trung đoàn ra lệnh nhanh chóng giải quyết hậu quả. Nhưng, một khó khăn đột xuất xảy ra, đó là việc bộ đội không còn gạo để ăn nữa. Bởi theo quy định thì đến binh trạm 36 sẽ nhận lương thực bổ sung vì đã hết. Thế nhưng, có được vài chiếc xe chở gạo, may mắn thoát khỏi các trọng điểm ác liệt do máy bay Mỹ đánh phá, vào tới đây thì đã bị cháy trong trận oanh kích sáng nay. Do đó, đành phải nằm chờ. Tôi có một kỷ niệm không thể nào quên với Đính ở binh trạm này. Hôm ấy đã hai ngày, chúng tôi ai nấy tự mình kiếm được gì ăn nấy. Tôi cùng Đính đi sâu vào rừng để tìm đào củ mài hoặc môn thục. Đang đi, bất chợt tôi phát hiện ra một tổ ong muỗi trong một hốc cây khô, liền chỉ cho Đính rồi thò tay vào móc. Mật ong theo cánh tay tôi chảy ra. Đính lấy bát sắt hứng. Hai người thay nhau uống. Tôi uống gần một bát "B52" (bát sắt tráng men Trung Quốc trang bị cho bộ đội dùng để ăn cơm, có dung tích khoảng 400 ml, vì rất to nên được gọi cường điệu là bát "B52") mật ong giữa lúc bụng rỗng không. Cố gắng lần đường về đến chỗ đóng quân, tôi liền treo võng nằm. Bị say mật, mọi người phải giã củ mài sống, lọc nước cho uống, mãi sau tôi mới tỉnh. Đính khoẻ hơn nên không bị say. Tôi vốn hay đau bụng, vậy mà sau lần say mật ấy, tôi không còn thấy hiện tượng ấy nữa. Chắc... giun đã chết hết... (!?)

...Chúng ta có thể hình dung mức độ ác liệt của chiến trường: cứ 100 xe vận tải xuất phát từ Quảng Bình, vào tới đây hoặc sâu hơn chút nữa, may ra chỉ còn lại vài chiếc. Qua các trọng điểm ác liệt, hầu hết các xe đều bị bắn cháy. Gạo ăn của bộ đội hàng ngày tuỳ thuộc vào những chiếc xe may mắn này.

Khác với trước đây, để chuẩn bị lương thực, thực phẩm cho bộ đội hành quân trên Trường Sơn, các đơn vị hậu cần của Bộ Tư lệnh 559 lo làm kho, lán dự trữ. Bộ đội đi đến đâu, tự giác lấy theo nhu cầu của mình. Đến giai đoạn này, quân vào đông, nguồn lương thực, thực phẩm dự trữ đã cạn. Tần suất các vụ oanh tạc của không quân Mỹ càng dày đặc và ác liệt. Mặt khác, một số kho lại bị bọn thám báo, biệt kích đốt cháy hoặc qua các mùa mưa đã bị mục nát. Do vậy, việc tiếp tế chủ yếu là dựa vào những chuyến xe đó. Những chuyến xe "mồ côi" như vậy khó có thể đáp ứng được nhu cầu tối thiểu hàng ngày cho bộ đội Trường Sơn...

Rời binh trạm 36, chúng tôi tiếp tục hành quân... Lại vượt dốc, trèo đèo, đêm nghỉ ngày đi... Tôi và Đính lại có một kỷ niệm đáng nhớ với nhau ở binh trạm 40. Vốn trước đó, do mang vác nặng, hành quân đường trường, lại đèo dốc, vực thẳm, tôi bị bong gân bàn chân phải, đau đớn vô cùng. Vậy mà trên vai vẫn bàn đế cối 82 ly, vẫn ba lô, bao gạo... Tôi cắn răng, cố lê từng bước để theo kịp đơn vị. Đang đi, bàn chân phải vốn bị bong gân của tôi bỗng vấp phải một cái rễ cây to nổi lên giữa lòng đường. Ôi! Đau! Một cái đau không có ngôn ngữ để diễn tả. Có lẽ những lần bị thương sau này cũng chưa lúc nào có cái cảm giác đau đớn hơn thế. Tôi ngã chúi người về phía trước. Nước mắt trào ra. Chiếc bàn đế rời vai tôi lao thẳng vào gót chân của Đính. Một mảng gân trắng hếu lòi ra. Tiếp theo là máu. Ôi, nhiều máu quá! Đính đau điếng, ngã theo. Cái nòng cối 82 đè lên cổ cậu ta. Còn chiếc bàn đế của tôi lăn xuống mép dốc, thiếu tý chút nữa thì rơi xuống vực. Tôi hoảng hồn, chợt nghĩ và hình dung ngay đến mức độ kỷ luật dành cho mình sẽ như thế nào nếu như chiếc bàn đế đó nằm dưới đáy vực? Cả đại đội được lệnh tạm dừng, chờ đợi để băng bó cho Đính. Xong mới tiếp tục hành quân. Phải mất hai tuần sau, Đính mới cà nhắc, vác được nòng pháo theo đơn vị. Còn cái chân phải của tôi đã thành mãn tính không lành được nữa. Tối tối, sau mỗi ngày hành quân trèo đèo, vượt dốc trong đau đớn, tôi phải ngâm chân bằng nước muối nóng cho đỡ đau để ngày hôm sau tiếp tục theo kịp đơn vị. Đau mấy cũng phải cố gắng theo, bước đi mà phải giấu dòng nước mắt chảy tràn trên má vì đau. Bởi nếu chỉ một biểu hiện nhỏ về sự nhụt chí sẽ bị xem là "có vấn đề về tư tưởng... (!?)"

... Chúng tôi vượt sông Xê Công khi trời đã về chiều. Mùa khô nên nước sông không sâu, cá ở con sông này nhiều vô kể. Binh trạm đóng gần sông. Tôi thấy ở gần chỗ trú quân là nơi uốn khúc của con sông, nước xoáy khoét sâu vào phía hữu ngạn tạo nên những cái vực sâu. Hôm ấy, một đồng chí trong đại đội (tôi không nhớ rõ tên) đã ném xuống một trái thủ pháo. Không biết cơ man nào là cá. Đại đội chúng tôi đã vớt được mấy bao tải (loại bao cát của Mỹ dùng để làm công sự dã chiến). Đồng chí này sau đó bị kỷ luật cảnh cáo vì vô kỷ luật, không đảm bảo bí mật hành quân, nhưng chúng tôi thì được ăn cá thoả thích, còn chia phần cho các đơn vị khác...

Mấy ngày sau, chúng tôi vượt dốc 2001 (2001 mét so với mặt biển). Dốc dựng đứng. Đầu người này chạm đáy ba lô người kia. Bộ đội công binh đã căng sẵn hai bên hai sợi dây song (mây) to gần bằng bắp tay. Không biết cây song mọc từ đời nào mà dài đến thế? Nếu không vì nặng mà để nguyên cả cây có lẽ nó phải dài đến cả cây số. Họ phải chặt ra nhiều khúc, căng ra cho bộ đội bám vào để leo lên. Dưới đất, công binh và giao liên binh trạm 559 phải làm cấp, lát gỗ, nẹp chặt lại để định vị. Có đến hàng chục nghìn bậc như vậy ở cả hai sườn dốc. Quả là kỳ diệu! Ở binh trạm này, bộ đội phải cõng nước từ dưới suối lên đỉnh dốc để nấu cơm tối ăn và nghỉ lại trên đó. Vì leo từ sáng đến 5 giờ chiều mới tới được đỉnh dốc. Đêm treo võng ngủ lại, sáng hôm sau mới từ đỉnh dốc leo tụt xuống.

Cứ thế... chúng tôi lại mải mốt đi... Lại vượt dốc, trèo đèo, vượt suối... Thấm thoắt đã gần 2 tháng trời hành quân, chúng tôi đã vượt không biết bao nhiêu ngọn núi chót vót của Trường Sơn, qua bao nhiêu sông rộng và chảy xiết nữa như Xê Bang Hiêng, Xê Rê Pốc... Gian khổ, ác liệt là thế nhưng tất cả vẫn lạc quan, yêu đời. Ở những thời điểm nghỉ giải lao 10 phút, giữa hai chặng hành quân, tiếng hát lại vang lên giữa núi rừng điệp trùng với đá tai mèo, dốc đứng:

Ta vượt trên đỉnh núi cao Trường Sơn. Đá mòn mà đôi gót không mòn. Ta đi nhằm phương Nam, gió ngàn đưa chân ta về quê hương. Quân về trong gió đang dâng triều lên. Máu thắm đường ta đi, lẫn mồ hôi rơi, tình quê tha thiết. Ta đi theo ánh lửa từ trái tim mình...

...Trên con đường ta đi lũ trào, thác xối, muỗi rừng, vắt núi. Ôi miền Nam đó giang tay gọi ta. Núi vút thành vách đứng, nắng hè khét đá, rừng khuya mất lối. Ta đi theo ánh lửa từ trái tim mình...

Hay: "Miền Nam kêu gọi ta, vượt Trường Sơn bay vọng ra. Ôi! Tiếng quê hương như thúc giục chúng ta. Mười mấy năm đã qua, giặc tàn phá trên quê nhà; gieo tóc tang điêu tàn xóm làng. Miền Nam yêu dấu ta ơi! Xin hiến dâng cả trái tim chúng tôi đang sục sôi. Miền Nam ơi! Một tiếng của Người gọi, chúng tôi sẽ lên đường về ngay chống quân thù...".

Chúng tôi hít căng lồng ngực, hát say sưa, tha thiết quên cả mệt nhọc gian khổ và đau đớn! Cái thời tuổi trẻ của những năm đánh Mỹ ấy, nào ai có thể dễ quên? Thật xúc động và tự hào!...

                                                                                                            V.K.S

. . . . .
Loading the player...