05-12-2025 - 01:24

Ghi chép “Huyền thoại Hoành Sơn” của tác giả Trần Đăng Đàn

Tạp chí Hồng Lĩnh số 231 tháng 11/2025 trân trọng giới thiệu tác phẩm tại Trại sáng tác 2025 khu vực phía Nam Hà Tĩnh, ghi chép “Huyền thoại Hoành Sơn” của tác giả Trần Đăng Đàn

Tôi nhớ mãi thời trẻ con đi học, thầy giáo già trường làng kể về sự tích Đèo Ngang. Thuở khai thiên lập địa, miền đất Kỳ Hoa (Kỳ Anh bây giờ) vốn còn là biển cả. Một lần thần biển Long Hải Đại Vương tình cờ nhìn thấy Công Chúa Thượng Ngàn với thần núi Cao Sơn Đại Vương đang ngồi chơi trên bờ biển thì đem lòng ganh ghét và tìm cách gây sự phá đám. Cả hai thần tức giận lời qua tiếng lại với nhau dẫn đến xô xát và cuối cùng là thách đấu với điều kiện nếu ai thắng sẽ có được Công Chúa Thượng Ngàn và nếu Cao Sơn thua phải hóa thành nước, Long Hải thua thì phải hóa thành đá. Đêm ấy cả một vùng náo động, sấm chớp liên hồi, sóng to gió cả, nước dâng lên thì núi cũng dâng lên. Long Hải Đại Vương cầm đại đao xông vào thì Cao Sơn Đại Vương dùng cây rừng đá núi đáp trả. Hai bên đánh nhau hàng trăm hiệp chưa phân thắng bại. Nhân lúc Long Hải Đại Vương đã thấm mệt, Cao Sơn Đại Vương bất ngờ dùng sức mạnh thánh thần ném một tảng đá lớn làm gãy đại đao của Long Hải  Đại Vương. Phần lưỡi đao bay ra xa chừng hơn ba chục dặm. Long Hải Đại Vương không còn khí giới trong tay biết là thua trận định bỏ chạy về thủy cung, nhưng nhớ lời cam kết khi thách đấu đành phải giữ khí phách thánh thần mà chịu nằm hóa đá thành một con rồng khổng lồ vắt ngang với chiều dài khoảng hơn 30 dặm (gần 60km), phần cuối nhoi ra biển, đời sau gọi là Mũi Độc. Đó chính là dãy núi Hoành Sơn ngày nay. Còn vũ khí gãy văng ra tạo thành Mũi Đao... Bây giờ thì tôi hiểu Hoành Sơn là một phần của dãy Trường Sơn hùng vĩ tách ra, bắt nguồn từ vùng núi Giăng Màn và kéo dài theo hướng tây sang đông, chạy thẳng ra biển mà Mũi Độc là điểm chót, tạo nên dải phân cách ranh giới địa lý tự nhiên theo chiều ngang từ bao đời nay. Hoành Sơn hiện còn dấu tích cổ lũy có từ thời vương triều Chăm Pa thế kỷ thứ IV. Đến thế kỷ XVII khi Trịnh Nguyễn phân tranh, nhận thấy công trình nằm ở vị trí núi cao, dốc đèo hiểm trở nên chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đã cho Trịnh Toàn củng cố, xây dựng lũy đá, tạo thành phòng tuyến vững chắc đề phòng quân của chúa Nguyễn từ Đàng Trong đánh ra. Con đường đèo độc đạo đi qua đây theo hướng Bắc Nam có tên gọi là Đèo Ngang. Đỉnh Đèo Ngang dân gian thường gọi là Cổng Trời, đến năm 1883 vua Minh Mạng cho xây Hoành Sơn Quan nhằm kiểm soát việc qua lại và phòng thủ. Công trình này được khắc vào Huyền đỉnh là một trong Cửu đỉnh tại kinh thành Huế.

Hoành Sơn Quan trên đỉnh đèo Ngang, hướng ra biển. Ảnh: PV

Tọa lạc ngay dưới chân Đèo Ngang là Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Cùng với Sơn Tinh Thủy Tinh, Thánh Gióng và Chử Đồng Tử, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được phong là Tứ Bất Tử, trường tồn vĩnh cửu trong dân gian. Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Đèo Ngang trong lần giáng thế thứ 3 là Công Chúa Thiên Đình tên là Ngọc Hoa, con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế đã chọn chân Đèo Ngang làm nơi trú ngụ. Thời gian này thiên hạ loạn lạc, Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tình vô cùng cơ cực nên Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã đi khắp nơi cứu dân, trừng trị kẻ ác. Tại đây công chúa đã hóa thân thành cô bán nước phục vụ khách qua đường, giúp dân tránh khỏi nạn dịch, xua đuổi thú dữ, dạy người trồng lúa, làm thay đổi vùng đất từ hoang vu trở thành nơi sầm uất, dân cư quần tụ, làm cho cảnh quan Đèo Ngang trở nên phong thủy hữu tình rồi đi vào thơ ca lưu danh vạn thủa. Gần đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh là chùa Thanh Phúc, ngôi chùa cổ nơi Bà Huyện Thanh Quan từng dừng chân trên chặng đường thiên lý qua đèo, để lại những áng thơ đau đáu nỗi niềm thế sự.

Hôm chúng tôi lên đỉnh đèo để mục sở thị Hoành Sơn Quan thì  trời nắng nhẹ, cái nắng hiếm hoi giữa những ngày mưa trong đợt gió lạnh đầu mùa và biển động dữ dội. Tôi thầm nghĩ hình như là Trời Phật thần linh đã ngầm phù trợ cho chúng tôi trong chuyến đi này. Đứng ở trên cao phóng tầm mắt nhìn xuống, tôi đắm hồn trong xúc cảm trước cả một không gian làng quê xưa nghèo khó đang vươn nhanh lên thành phố thị, chẳng khác gì một bức tranh đại phong cảnh tuyệt vời. Sau khi đã thỏa sức khám phá vẻ đẹp và chụp ảnh lưu niệm nơi Cổng Trời này, chúng tôi tiếp tục di chuyển theo triền dốc đường đèo phía Nam Hoành Sơn để sang Vũng Chùa viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đã vài lần đến Vũng Chùa rồi mà lòng tôi vẫn rưng rưng khi đứng thắp hương trước phần mộ Đại tướng, bất giác nghĩ được mấy vần nôm na:

Chí Trung

Dũng lược

Thiên tài

Danh thơm lưu suốt dặm dài Trường sinh

Khước từ ảo lộc hư vinh

Người về hóa đất Quảng Bình quê yêu

Trưa đó chúng tôi trở lại Hoành Sơn theo lối hầm đèo đường bộ để ghé thăm dòng Xích Mộ dưới chân Mũi Độc. Sông Xích Mộ có độ dài khoảng chừng hơn ba cây số chạy dọc theo 2 thôn Minh Đức và Tân Thành của xã Kỳ Nam. Đây chắc chính là con sông mà bà Huyện Thanh Quan đã nói đến trong câu thơ “Lom khom dưới núi tiều vài chú / Lác đác bên sông chợ mấy nhà” vì nó gần Đèo Ngang nhất, chảy sát ngay dưới chân Mũi Độc.

Cùng với Đèo Ngang và dãy Hoành Sơn, Xích Mộ là chứng tích của một thời biên ải. Lần trước tôi cùng nhà báo - nhà thơ Lê Văn Vỵ đã từng đến nơi đây. Dạo ấy đang giữa mùa hè, gió cát và nắng táp rát mặt, tôi với bạn tôi ngồi ẩn dưới tán những cây phi lao cổ thụ tại Cồn Choi sát cửa sông. Miên man nhìn những đợt sóng bạc đầu vỗ tung bọt trắng xóa phía Mũi Độc, bạn tôi xa xăm kể cho tôi biết rằng trước kia đây là cửa sông rộng tới hàng trăm mét nên chắc vùng này cũng đã từng sầm uất lắm, nhưng bây giờ đã bị vùi lấp. Sông Xích mộ có đoạn cát bồi cao tới gần một mét. Dòng Xích Mộ đang oằn lưng kêu cứu. Lần ấy trở về tôi có bài thơ “Ghi ở Hoành Sơn” đã đăng trên Tạp chí Hồng Lĩnh: Tôi trở lại Hoành Sơn/ Tìm dấu tích của một thời biên ải/ Vẳng tiếng chim đa đa mé đồi khắc khoải/ Chiều hoang vu xoáy ngọn gió cô hồn./ Tôi đắm nhìn trong cõi mộng du/ Bao kiếp đá chồng lên nhau đủ hình hài dáng vẻ/ Bao kiếp đá gồng mình như chiến binh cảm tử/ Kiên trung ngăn từng đợt sóng xô bờ…”.

Trở lại hôm nay cùng đoàn văn nghệ sỹ Hà Tĩnh, trước mặt tôi Xích Mộ chỉ còn là một con lạch cạn hẹp, ép dòng chảy nhỏ nhoi buồn thiu vào sườn núi. Cây phi lao cổ thụ hôm nào chúng tôi ngồi hóng mát đã bị bão Bualoi quật ngã. Thấy có mấy con gà đi kiếm ăn trên bờ cát liêu xiêu trong gió lạnh, tôi bất chợt liên tưởng đến cuộc sống vất vả gian truân nơi đầu sóng ngọn gió, càng thêm cảm phục con người dưới chân Đèo Ngang đã và đang vươn lên xây dựng cuộc sống mới đàng hoàng tươi đẹp. 

Đến Hoành Sơn chúng tôi được ngồi uống rượu Thần Đầu, nghe kể chuyện sự tích làng Thần Đầu, chuyện Núi Đụn và hai ông Thánh Trạng thật say mê. Chuyện kể rằng thuở hồng hoang có một vị ẩn sỹ cao lớn khác thường tự xưng là tiều phu, đến vùng đất này sinh cơ lập nghiệp rồi dạy dân từ săn bắt hái lượm đến biết cách trồng trọt chăn nuôi, làm cho đời sống càng ngày càng no đủ, dân cư càng ngày càng đông đúc. Ông được dân làng rất quý trọng. Một hôm có lũ giặc biển đến cướp phá, bắt đi nhiều trâu bò gà lợn. Dân làng sợ hãi bỏ trốn hết vào rừng. Ông tả xung hữu đột, giết được nhiều giặc cướp nhưng rồi chính ông lại sa vào bẫy của chúng và bị bắt. Chúng đem ông ra chặt đầu tế cờ. Nhưng kỳ lạ thay, khi đầu ông lìa khỏi cổ thì không có giọt máu nào chảy ra, cái đầu tự bay về làng rồi biến mất. Bọn giặc vô cùng sợ hãi, để lại tất cả những gì đã cướp được mà bỏ chạy bạt vía. Dân làng thương tiếc lập đền thờ ông gọi là đền Thần Đầu. Về sau dải đất ở đó tự nhiên mọc lên hai ngọn núi sóng đôi nhau một cao một thấp gọi là Núi Đụn. Đằng sau hai ngọn núi đó là hòn Cụp Chiêng và hòn Cụp Cờ. Đến thế kỷ XV, làng Thần Đầu có hai anh em ruột là Lê Quảng Chí và Lê Quang Ý lần lượt thi đỗ đại khoa. Người anh Lê Quảng Chí (1454-1533) đỗ đầu kỳ thi đình năm Mậu Tuất (1478), được vua phê chuẩn danh hiệu “Đệ nhất giáp tiến sỹ, cập đệ nhị danh”, làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lễ kiêm Đông các Đại học sỹ. Năm 60 tuổi ông về trí sỹ ở quê, mở trường dạy học, lấy hiệu là Lãm Sơn Tiên Sinh. Ông mất năm 1553 thọ 82 tuổi, được truy tặng Thượng thư. Còn người em Lê Quảng Ý (1453-1526) đậu tiến sỹ năm Cảnh Thống thứ 2 đời vua Lê Hiến Tông (1499), được bổ làm  quan đến chức Hàn lâm viện thị chế, tước Bảng quận công kiêm Đệ lĩnh tứ thành quân vụ. Ngày nay tại làng Thần Đầu có đền thờ hai anh em Lê Quảng Chí và Lê Quảng Ý còn được gọi là đền Thánh Trạng và đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích Lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Hằng năm cứ đến trước các kỳ thi, học sinh trong vùng thường đến đây thắp hương cầu mong đỗ đạt. Để tôn vinh công trạng và ngưỡng vọng danh thơm của hai anh em Bảng nhãn Lê Quảng Chí và Tiến sỹ Lê Quảng Ý, trong dân gian đã truyền tụng về hai ngọn Núi Đụn là núi Anh và núi Em “Nguy nga song bút”. Đằng sau hai ngọn núi đó là hòn Cụp Chiêng và hòn Cụp Cờ đứng thẳng hàng như đang nghênh tiếp hai vị khoa bảng.

Đến Hoành Sơn chúng tôi còn được nghe kể câu chuyện đẹp như cổ tích giữa người lính Việt Nam Phạm Trọng Việt với cô gái Campuchia Xvai Chăn Thon. Năm 1983, tân binh Phạm Trọng Việt có mặt trong đoàn quân tình nguyện Việt Nam sang Campuchia chiến đấu chống bọn diệt chủng Khơ Me Đỏ, giúp nhân dân Campuchia bảo vệ chính quyền nhân dân cách mạng còn non trẻ. Tại đây người lính Phạm Trọng Việt gặp cô giáo mầm non Xvai Chăn Thon ở Săn Đan tỉnh Công Pông Thom và đã trúng tiếng sét ái tình ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên ấy. Tình yêu dịu ngọt cứ thế đi qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh, cho đến năm 1987, anh Việt hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về nước, để lại cô giáo Chăn Thon trống vắng thẫn thờ với tờ giấy ghi dòng địa chỉ mang tên Phạm Trọng Việt quê Kỳ Thịnh, Kỳ Anh và lời hứa hẹn không lấy gì làm chắc chắn rằng sẽ có một ngày anh trở lại Săn Đan… Chỉ sau mười ngày xa cách cô gái 22 tuổi ấy quyết định nghe theo tiếng gọi của tình yêu, bí mật giấu cả những người thân yêu nhất trong gia đình, một mình mang theo tờ giấy ghi địa chỉ của anh Việt, từ biên giới Tây Ninh vượt qua muôn trùng gian nan vất vả, cuối cùng cũng đã tìm về được đúng quê hương anh Kỳ Thịnh trong sự sửng sốt bất ngờ của người yêu và gia đình họ tộc. Tình yêu và định mệnh đã khiến họ gặp nhau, yêu nhau và nên vợ nên chồng. Năm 1994 khi cuộc sống đã ổn định, gia đình nhỏ đã ấm áp tiếng cười con trẻ, Xvai Chăn Thon cùng chồng và con gái thứ hai theo con đường cũ năm xưa trở lại Săn Đan thăm quê hương và tạ lỗi với cha mẹ. Sau bảy năm xa cách, thấy đứa con gái “mất tích” bỗng đột ngột tìm về, họ ôm lấy nhau mà khóc như mưa. Đó là những dòng nước mắt thương yêu nhung nhớ của tình cảm ruột thịt đã được kìm nén tích tụ lại qua bao nhiêu tháng năm ly biệt. Sau hơn 30 năm bây giờ khi đã thành ông thành bà, vợ chồng anh chị Trọng Việt - Chăn Thon cảm thấy thật mãn nguyện khi cả ba đứa con đủ nếp tẻ đều chăm ngoan được học hành thành đạt, cuộc sống gia đình ổn định hạnh phúc trong căn nhà khang trang và quán café Chăn Thon bên bờ sông Trí hiền hòa thơ mộng, giữa ấm áp tình nghĩa xóm làng đùm bọc.  Chuyện tình của người lính Việt Nam Phạm Trọng Việt với cô gái Campuchia Xvai Chăn Thon có thể coi như là một câu chuyện cổ tích thời hiện đại, là một biểu tượng đẹp của tình yêu không biên giới. 

Sáng ngày chúng tôi rời Hoành Sơn thì trời mưa to gió mạnh như thể muốn cản trở trì níu chưa muốn chia xa. Theo kế hoạch, đáng lẽ trên đường về qua Vũng Áng chúng tôi sẽ ghé tham quan cảng Nước Sâu và khu công nghiệp Formosa (nay là Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh), nhưng do thời tiết cản trở nên đành hẹn một dịp khác mà đi thẳng ra đền thờ Chế Thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu hay còn gọi là đền Bà Hải, một cung phi sủng ái của vua Trần Duệ Tông ở thế kỷ XIV, người đã viết bản tấu “Kê minh thập sách” dâng vua bàn về kế sách trị quốc bình thiên hạ, cũng là người đã sát cánh cùng nhà vua trong cuộc nam chinh đánh giặc Chiêm Thành rồi hy sinh trong chiến trận, để lại danh thơm muôn đời, bất tử trong lòng dân với tất cả sự linh thiêng vi diệu.

Hình như cũng thấu hiểu được tâm trạng của chúng tôi, anh tài xế cố tình cho xe chạy chậm lại. Trước mắt tôi hiện lên là một đô thị trẻ đã được quy hoạch đang hình thành và phát triển theo hướng hiện đại hóa để trở thành một vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh nhà. Đến một khúc cua rẽ đường sang Kỳ Trinh, qua cửa kính nhìn lại tôi vẫn thấy có cả Hoành Sơn như đang dõi theo. Trong tâm trí tôi càng tâm đắc những chia sẻ của lãnh đạo phường trong buổi chiều giao lưu gặp gỡ, rằng “Hoành Sơn không chỉ là ký ức, Hoành Sơn phải trở thành một đô thị trẻ và hiện đại. Phát triển Hoành Sơn không chỉ là những con số mà còn là việc phải biết giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, để mỗi di tích và lễ hội truyền thống trở thành một phần nguồn lực, đặc biệt là sản phẩm du lịch nhằm góp phần làm giàu cho quê hương”.

Bất giác tôi giơ tay vẫy vẫy, lòng thầm gửi một lời chào. Tạm biệt nhé Hoành Sơn ơi hẹn ngày gặp lại…

T.Đ.Đ

. . . . .
Loading the player...