Hòa chung không khí kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025), Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu tùy bút "Đường đến Sài Gòn ngày 30 tháng 4" của nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú.
ĐƯỜNG ĐẾN SÀI GÒN NGÀY 30 THÁNG 4
Trưa ngày 30 tháng 4, lá cờ quân giải phóng đã kéo lên trên nóc dinh Độc Lập, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc đụng đầu lịch sử này, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ kính yêu, quân và dân Việt Nam đã đánh thắng từng bước leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ từ “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” đến “Việt Nam hóa chiến tranh”, thực hiện sách lược giành thắng lợi từng bước, làm thay đổi cục diện chiến trường, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối, đất nước vẹn tròn thống nhất. Để có được đại thắng mùa xuân ngày 30/4, dân tộc ta đã trải qua bao dấu mốc lịch sử, tạo nên những bước ngoặt lớn lao của cách mạng Việt Nam. Đó là ngày 3/2/1930 thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 19/8, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Trở lại với quá khứ, truyền thống dân tộc chúng ta đấu tranh anh dũng, gian lao, quật cường, kháng chiến, các trang sử hào hùng của cha ông xưa đã từng có những trận thắng lớn. Đó là: Trận Bạch Đằng (1288) chống quân Nguyên Mông, trận Chi Lăng (1427) chống quân giặc Minh, trận Đống Đa (1789) chống quân Thanh.
Còn đó âm vang câu thơ trào dâng khí thế, khí phách: “Chương Dương cướp giáo giặc – Hàm Tử bắt quân thù – Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu” trong thơ tướng quân Trần Quang Khải. Và chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân toàn thắng đã được nhà thơ Tố Hữu viết với nhịp điệu dồn dập, hào sảng, náo nức trào dâng: “Chặt Buôn Mê Thuật rụng cả Tây Nguyên – Quét Huế -Thừa Thiên đổ nhào Đà Nẵng - Và Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên – Và Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Nha Trang lũ Ngụy cuống cuồng rũ rượi một màu tang cờ trắng”. Và đỉnh cao là ngày 30/4 khi xe tăng húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập, húc đổ thành trì chính quyền của giặc thì cảm xúc dạt dào của nhà thơ ngân vang: “Ôi buổi trưa nay tuyệt trần nắng đẹp – Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta – Chúng con đến xanh ngời ánh thép – Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa.”. Vâng, thưa Bác, cách đây 64 năm từ bến nhà Rồng Bác đã ra đi tìm đường cứu nước, hôm nay chúng con đã trở về với chiến dịch mang tên Bác: Chiến dịch Hồ Chí Minh! Thành phố sau giải phóng mang tên Bác: Thành phố Hồ Chí Minh! Và “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”, vẫn “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng – Lời Bác này thành chiến thắng huy hoàng” (Phạm Tuyên). Lời của Bác đã tiên đoán từ 6 năm về trước trong bài thơ chúc tết năm 1969 trở thành hiện thực: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” để: “Nam Bắc sum họp xuân nào vui hơn”.
Giở lại những trang tư liệu lịch sử, chúng ta đi đến ngày thống nhất đất nước đã trải qua bao bước ngoặt. Sau ngày hiệp định Giơnevơ được ký kết tháng 7/1954, đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân Pháp, thực hiện ý đồ áp đặt ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới tại miền Nam Việt Nam. Đầu năm 1959, nghị quyết 15 của Ban chấp hành trung ương Đảng ra đời, mở ra một phương thức đấu tranh mới, cách mạng miền Nam từ chỗ chỉ tiến hành đấu tranh chính trị giữ gìn bảo toàn lực lượng là chính tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị song song với đấu tranh vũ trang. Giai đoạn 1961 – 1972, dưới ánh sáng đường lối chiến tranh nhân dân, quân và dân ta đã đánh bại các chiến lược của đế quốc Mỹ. Đặc biệt, cuộc tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu thân 1968 đã tạo ra bước ngoặt quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Nhạy bén nắm bắt tình thế thuận lợi khi quân Sài Gòn suy yếu, Mỹ bế tắc chiến lược, chúng ta mở cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972 trên các chiến trường miền Nam. Và cùng với việc đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ ở miền Bắc cuối tháng 12 năm 1972, chúng ta đã đạt được mục tiêu giành thắng lợi quyết định, buộc đế quốc Mỹ xuống thang, chấp nhận ký kết hiệp định Paris. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 được tạo bởi ba đòn chiến lược, đến đầu tháng 4/1975, ta giành chiến thắng ở các chiến dịch Tây Nguyên, Huế-Trị Thiên, Đà Nẵng, từ chỗ hạ quyết tâm hoàn thành giải phóng miền Nam trong hai năm rồi rút ngắn giải phóng trong năm 1975 và cuối cùng là tháng 4/1975.
Trong một cuộc hội thảo văn học viết về đề tài chiến tranh cách mạng qua 50 năm tại Nhà xuất bản Quân đội mới đây, một nhà văn đã phát biểu rất hay: “Hôm nay chúng ta đi từ Hà Nội vào Sài Gòn chỉ mất vài tiếng đồng hồ giờ bay. Nhưng các thế hệ chúng ta đã đi qua mấy chục năm khói lửa chiến trường, bao hy sinh oanh liệt mới đến đích cuối cùng là ngày 30 tháng 4”. Những trang sử vẻ vang của dân tộc đã chứng minh hùng hồn những thời khắc cam go ác liệt thì tinh thần, ý chí, niềm tự hào càng phát huy cao độ. Đó là bài thơ thần “Nam Quốc sơn hà” vang lên khi chống giặc Tống năm 1075 hay các bô lão cùng thét vang hai chữ “Sát Thát” (đánh giặc Nguyên) của Hội nghị Diên Hồng. Đó là lúc toàn dân đồng loạt vùng lên xé tan gông xiềng nô lệ “Đem sức ta mà giải phóng cho ta” theo lời hiệu triệu của Đảng và Bác Hồ trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là hào khí của cuộc tổng tiến công mùa xuân 1975 theo lời hịch mật lệnh của đại tướng Võ Nguyên Giáp – Vị tổng tư lệnh của quân đội ta: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo hơn nữa! Tranh thủ từng giờ xốc tới mặt trận giải phóng miền Nam! Quyết chiến! Toàn thắng!”. Tinh thần chiến thắng 30 tháng 4 luôn tỏa sáng trong thời đại ngày nay đúng như Đại hội Đảng toàn quốc (2/1976) đã nhận định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất. Một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người đã đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ hai mươi. Một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn, có tính thời đại sâu sắc”.
N.N.P