01-11-2022 - 07:10

DANH NHÂN ĐẶNG TẤT VÀ ĐẶNG DUNG

Đặng Tất, Đặng Dung thuộc dòng dõi cụ tổ Đặng Bá Kiển, quê ở làng Tả Hạ, xã Phù Lưu, tổng Nội Ngoại, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An. Hiện nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Mộ cụ Đặng Bá Kiển vẫn còn ở núi Long Tỵ thuộc xã này. Văn Nghệ Hà Tĩnh hân hạnh giới thiệu bài viết “Danh nhân Đặng Tất và Đặng Dung” của tác giả Đặng Viết Tường.

DANH NHÂN ĐẶNG TẤT VÀ ĐẶNG DUNG

 

     Gia phả họ Đặng ở xã Tùng Lộc do tổng binh Đặng Ngụ Quế cháu xa đời của danh nhân Đặng Dung, biên soạn ngày 18 tháng 8 năm Khánh Đức thứ 6; triều vua Lê Thần Tông (hạ)(1654) chép rõ nguồn gốc, quê quán Đặng Tất, Đặng Dung. Cụ tổ là Đặng Bá Kiển, quê ở làng Tả Hạ, xã Phù Lưu, tổng Nội Ngoại, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An. Hiện nay có đền thờ ở xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Mộ cụ Đặng Bá Kiển vẫn còn ở núi Long Tỵ, thuộc xã này, đã được tu bổ, tôn tạo. Đền thờ 2 danh nhân có 3 toà; họ Đặng còn lưu giữ nhiều đạo chiếu chỉ, sắc phong, câu đối.
      Gia phả cho biết tỵ tổ Đặng Tất, Đặng Dung là cụ Đặng Tảo, đậu thái học sinh triều Trần, làm quan đến chức Đông các Đại học sĩ, sau khi mất được vua Trần phong Cao Nghĩa Thần. Quê ông ở huyện Hậu Lộc, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoá. Con trưởng Đặng Tảo là cụ Đặng Lộ, sinh năm Ất Mão, niên hiệu Nguyên Phong thứ 5 (1225), đời vua Trần Thái Tông, làm Thái sử cục lệnh, kiêm làm lịch. Con trai cụ Đặng Lộ là cụ Đặng Bá Kiển dời về làng Tả Hạ. Theo nhà sử học Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” thì con trai cụ Bá Kiển là cụ Đặng Bá Tĩnh, nhà nghèo mà học rộng, tài cao, thi đỗ Thám hoa triều Trần làm quan đến chức Hành khiển chuyển vận sứ, Thượng thư bộ Lại, tước Tuấn Sĩ hầu. Con trai cụ là cụ Đặng Đình Dực giữ chức Đại tri châu Nghệ An. Cụ là thân phụ Quốc công Đặng Tất.
      Sách “Đại Nam thống nhất chí” do Cao Xuân Dục, Lưu Đức Tùng, Trần Xáu soạn bản, in năm 1909, phần nhân vật chí chép: “Đặng Tất đỗ Thám hoa triều Trần làm quan đến chức Hành khiển là con cháu của Lại bộ Thượng thư Đặng Bá Tĩnh”. Sách Nghệ An ký của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch ghi: “…Cứ sử ký thì Đặng Tất có tên ở Đăng Khoa Lục” tức là từng đỗ đại khoa. Theo thư tịch cổ Đặng Tất vốn là quan lại cũ của nhà Trần, sau theo nhà Hồ làm Đại tri châu Châu Hoá. Con trai trưởng của ông là Đặng Dung, sinh ra, lớn lên trong bối cảnh triều đình nhà Trần suy yếu vì ngoại thích Hồ Quý Ly chuyên quyền, lộng hành, ép vua Trần Thuận Tông, lập Trần Thiếu Đế rồi phế đi để cướp ngôi vua. Mượn chiêu bài “Phò Trần Diệt Hồ” giặc Minh sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ tổ chức kháng chiến nhưng thất bại liên tiếp ở phòng tuyến sông Đà, sông Hồng, thành Đa Bang, Tây Đô. Cuối cùng Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt ở núi Thiên Cầm, Hồ Hán Thương bị bắt ở núi Cao Vọng, cửa bể Kỳ La (Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh). Hiện nay tại núi Thiên Cầm vẫn còn dấu tích “hang Hồ Quý Ly”, “con đường bắt”. Sự  nghiệp kháng chiến của nhà Hồ thất bại cơ bản vì “lòng người ly tán”, trước sự tấn công của giặc, họ Hồ không đủ uy tín để tập hợp lòng dân thành một khối. Hồ Nguyên Trừng, con trai Hồ Quý Ly, viên tướng chỉ huy quân đội nhà Hồ từng thú nhận: “Thần không sợ đánh mà chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi.”(Đại Việt sử ký toàn thư-Tập 3, NXB  Khoa học –Xã hội năm 1972, trang 122.)
       Giặc Minh biến nước ta thành quận huyện, thực hiện chính sách “lấy di trị di”. Do bị giặc bức bách nên cụ Đặng Tất giả hàng, làm Đại tri châu Châu Hoá trong bộ máy chính quyền đô hộ. Ngày 2 tháng 10 năm Đinh Hợi (1-11-1407), Trần Ngỗi tự xưng Giản Định đế; dựng cờ khởi nghĩa ở Yên Mô, (Ninh Bình) lập triều Hậu Trần. Lực lượng nghĩa quân vừa mới gây dựng thì bị quân Minh kéo đến đàn áp nên nghĩa quân có nguy cơ tan rã. Trần Ngỗi kéo quân vào Nghệ An tiếp tục hoạt động. Được tin một số quý tộc nhà Trần cùng quan lại cũ nhà Hồ tìm về ứng nghĩa. Giận cảnh hung tàn của giặc Minh, Đặng Tất cùng con là Đặng Dung nổi dậy khởi nghĩa ở Châu Hoá, giết sạch quan lại binh lính giặc Minh ở đây rồi kéo quân ra Nghệ An, đứng dưới cờ nghĩa vua Giản Định. Ông đem con gái Đặng Thuý Hạnh gả vua làm hậu cung. Tiến sĩ triều Lê Đặng Đôn Phục, con cháu xa đời cụ Đặng Tất soạn “gia phả họ Đặng” vào mùa xuân năm Canh Ngọ, niên hiệu Thiên Hữu thứ 14 chép: “Khi Hồ Quý Ly tiến ngôi, ông đang làm tri châu Châu Hoá, ông giúp vua Giản Định, con gái ông được chọn làm hậu cung”. (Bản dịch của Phạm Thị Hoa, cán bộ viện nghiên cứu Hán Nôm). Vốn là người có tài nên ông được vua phong làm Quốc công, chỉ huy toàn bộ lực lượng nghĩa quân. Dưới sự chỉ huy của Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, nghĩa quân đánh nhiều trận nổi tiếng. Cuối năm 1407, nghĩa quân tổ chức đánh thành Diễn Châu, thành Nghệ An, tiêu diệt bọn Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu và 600 tay sai giặc Minh. Tướng giặc Trương Phụ đem quân đến Nghệ An đàn áp. Cụ Đặng Tất cự không nổi nên đưa vua Giản Định rút vào Châu Hoá (Quảng Trị) xây dựng căn cứ. Ngày 6.6 năm Mậu Tý (1408) ông đánh tan đạo quân của viên hàng tướng giặc Minh là Phạm Thế Căng ở cửa Nhật Lệ. Tháng 10–1408 ông điều động quân các lộ Thuận Hoá, Tân Bình, Nghệ An, Thanh Hoá tiến ra Đông Đô. Hào kiệt trong nước nhiệt liệt hưởng ứng. Ngày 14 tháng Chạp năm ấy Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân cùng quân ta đánh trận Bô Cô nổi tiếng, đánh tan quân Minh trên bến Bô Cô (nay là xã Hiếu Cổ, Nam Định), chém chết Thượng thư bộ binh Lưu Tuấn, Đô ti Lữ Nghị. Sách “Ô Châu cận lục” của tiến sĩ Dương Văn An nhận xét rằng: “Xem cái mức hơn kém về nhân vật quan hệ đến nước nhà cái đức trọng nghĩa của Đặng Tất là nhân tài của cả nước chứ đâu phải là nhân tài của riêng Ô Châu.” Sau một năm phò giúp nhà Hậu Trần, Đặng Tất góp sức lập nhiều võ công to lớn. Sau chiến thắng Bô Cô thì nội bộ bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa có mâu thuẫn. Năm 1409 Giản Định đế đa nghi nghe lời gièm pha của bọn Nguyễn Quỹ, Nguyễn Mộng Trang: “Coi chừng tướng tài sắp làm phản đó”(Cương mục). Vua phục quân giết Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân trên bến Hoàng Giang. Đầu ông rơi xuống dưới lưỡi gươm oan nghiệt của ông vua mù quáng. Sự kiện này được chép rõ trong gia phả họ Đặng: “Ông (Đặng Tất) bị nội nhân Nguyễn Hội gièm pha và bị giết hại”. Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhà sử học Ngô Sĩ Liên có lời bình: “Nghe lời gièm pha của kẻ hoạn quan một lúc giết hai người bề tôi phò tá tự mình chặt bỏ chân tay bè cánh thì làm sao nên việc được.”

Tượng thờ Đặng Tất, Đặng Dung ở từ đường Đặng tộc Hồng lam (Tùng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh)

     Khi nghe tin cha mình cùng Nguyễn Cảnh Chân bị vua giết oan, bấy giờ cụ Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đang trấn thủ Châu Hoá vô cùng đau xót, căm phẫn nhưng ông sáng suốt đặt nợ nước lên đầu, gác thù riêng lại ủng hộ nhà Hậu Trần lãnh đạo phong trào kháng chiến của nhân dân ta. Nhưng không thể tiếp tục cộng tác với Giản Định được, ông rút quân về huyện Chi La (vùng Đức Thọ, Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) rồi cho người ra Thanh Hoá rước cháu vua Nghệ Tông là Trần Quý Khoáng về làm minh chủ. Ngày 17-3 năm Kỷ Sửu (2-4-1409) Trần Quý Khoáng lên ngôi vua ở Bà Hồ, Chi La (xã Yên Hồ- Đức Thọ) lấy niên hiệu Trùng Quang đế. Hành dinh đặt ở hữu ngạn sông La và sông Minh Lương. Đem quân ra Bắc đánh úp bắt Giản Định về làm Thái thượng hoàng để thống nhất lực lượng kháng chiến. Ông Đặng Dung được vua Trùng Quang phong Bình chương Quốc sự. 
      Từ năm 1409 đến năm 1413 ông cùng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Suý, Nguyễn Biểu bày mưu lập kế nếm mật nằm gai cùng vua và nghĩa quân đánh hàng trăm trận lớn nhỏ. Nghĩa quân lại lần lượt giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá, Hoan Diễn rồi tiến đánh Tây Đô, Bình Than, Hàm Tử, Chương Dương, bao vây thành Cổ Lộng, thành Đông Quan, thế mạnh như chẻ tre. Lực lượng khởi nghĩa lại phát triển nhanh chóng. Sách “Hoàng Minh thực lục” thừa nhận: “Thế lực của giặc (chỉ nghĩa quân) ngày một mạnh quan quân nhiều lần dẹp không nổi”. Vua Minh sai Trương Phụ một viên tướng giỏi, khát máu, lắm mưu mẹo nham hiểm, có nhiều kinh nghiệm cướp nước lại đưa viện binh sang đánh dẹp cuộc khởi nghĩa. Tháng 6 năm 1412 Phụ đem 24.000 quân tổ chức càn quét quy mô lớn. Đặng Dung cùng vua Trùng Quang và nhân dân chiến đấu dũng cảm. Nhiều trận đánh không cân sức đã diễn ra nhưng quân ta không hề nao núng. Về tinh thần chiến đấu dũng cảm của Đặng Dung, nghĩa quân, kẻ bình định (Khâu Tuấn) trong sách “Bình định Nam Giao lục” thừa nhận: “Lúc bấy giờ từ Đông Quan về phía Đông giặc cướp (chỉ nghĩa quân) nổi lên như ong, gọi là dẹp xong chỉ có mỗi thành Giao Châu mà thôi.” Tuy nhiên Bình chương Quốc sự Đặng Dung và nghĩa quân không cản nổi cuộc tấn công của Trương Phụ, Mộc Thạnh. Nhiều trận đánh đẫm máu diễn ra ở Hạ Hồng, Hàm Tử, Bình Than, Diễn Châu, Nghệ An. Tháng 10- 1412, Trương Phụ mở cuộc càn quét quy mô lớn vào căn cứ Bà Hồ - Chi La. Giặc chiếm được thành Diễn Châu, thành Nghệ An. “Lịch sử Nghệ Tĩnh” viết: “ Đầu tháng 11 -1412, quân Minh tiến vào lưu vực sông Ắc ( Ngàn Sâu – Hương Khê). Để bảo tồn lực lượng nghĩa quân phải lui về vùng núi Tân Bình, Thuận Hoá (Bình – Trị- Thiên). Trước những cuộc vây quét của  giặc, nghĩa quân tuy có đánh được một vài chiến thắng nhỏ, nhưng lực lượng của cuộc khởi nghĩa hao hụt quá lớn, “chỉ còn độ 3, 4 phần mười”.
      Bình chương Quốc sự Đặng Dung rút quân về Châu Hoá dựa vào thế rừng núi hiểm trở để chặn giặc. Trương Phụ chia quân làm hai đạo đuổi theo rất gấp đến bến Thái Gia. Đặng Dung, Nguyễn Suý bố trí nghĩa quân mai phục chặn giặc. Đêm đó thuyền Trương Phụ vừa kéo đến thì ông chỉ huy quân phục đổ ra đánh giết. Trong đêm tối lờ mờ, ông cầm kiếm Long Tuyền nhảy lên thuyền Trương Phụ định bắt sống y. Lưỡi kiếm vung lên trong chốc lát bọn tướng tá hộ  vệ Trương Phụ bị ông giết sạch. Thấy nguy, Trương Phụ vội nhảy xuống sông Thái Gia trốn thoát. Trời sáng dần nhưng quân ta chưa đến tiếp ứng. Trương Phụ kịp hoàn hồn nhận thấy lực lượng nghĩa quân của ông rất ít nên y đã tổ chức phản công lại. Tháng 10 -1413 trận quyết chiến trên sông Ái Tử (Già Cảng) là chiến công oanh liệt cuối cùng của cuộc đời ông, sử sách đều ca ngợi. Trận Ái Tử diễn ra trong tương quan lực lượng không cân sức, bất lợi cho nghĩa quân, nhưng dưới sự chỉ huy tài giỏi của Đặng Dung, Nguyễn Suý, nghĩa quân Hậu Trần đã tiêu diệt hơn phần nửa quân số giặc, thiêu huỷ nhiều binh khí, thuyền ghe…Trương Phụ suýt bỏ mạng. Nói về trận Thái Gia, nhà sử học Ngô Sĩ Liên bình: “Trận đánh ở Thái Gia; Đặng Dung, Nguyễn Suý đem quân thua sót trơ trọi không viện binh mà đối địch với bọn giặc khoẻ mạnh, Dung đánh úp quân giặc ban đêm làm cho tướng giặc sợ chạy đốt hết ghe thuyền khí giới, không phải là người có tài làm tướng mà làm được thế ư ? Trong khoảng năm năm đánh nhau (ông) chí vẫn không nao núng, khí khái càng hăng, kiệt sức mới chịu thôi. Lòng trung của người làm tướng, đối với nước dù trăm đời vẫn còn tưởng thấy” (Đại Việt sử ký toàn thư). Lòng trung của Đặng Dung còn được tiến sĩ Dương Văn An bình trong sách: “Ô Châu cận lục”: “Lấy toán quân cô đơn ra mà phá giặc hung mạnh giữa buổi nguy vong tức là Trương Thế Kiệt đối với Đế Bính nhà Tống vậy. Có thể theo thường lệ mà nghị luận anh tài ư”.
        Một mùa xuân cách đây đã hơn 600 năm, tháng Giêng năm 1414, Bình chương Quốc sự Đặng Dung rơi vào tay giặc ở sách Cha-Bồ Cán (Bồ Kết), trong rừng núi Thuận Hoá. Tướng giặc Trương Phụ mở tiệc khoản đãi ông nhưng Đặng Dung thà chết chứ không cam tâm làm tay sai của giặc. Dụ dỗ không được chúng đưa ông lên thuyền cùng vua tôi Trùng Quang đi đường biển về Bắc Kinh (Trung Quốc). Đi được nửa đường, vua Trùng Quang, Đặng Dung, Nguyễn Suý…đều nhảy xuống nước chết. Sử sách chép sinh thời Đặng Dung nổi tiếng cầm kỳ thi hoạ nên người đương thời gọi ông “Thi cầm quân tử kiếm”. Trên đường bị giải về Bắc Kinh ông khắc lên ván thuyền bài thơ “Cảm hoài” gửi tâm sự lại cho hậu thế. Gia phả họ Đặng ở Tùng Lộc viết về ông tổ Đặng Dung: “Hận về cha bị chết vô tội. Ông cùng Cảnh Chân lập vua Trùng Quang lên ngôi. Vua phong ông làm Bình chương Quốc sự. Sau trận thắng lớn ở Thái Gia, quân Minh truy lùng ông ráo riết. Khi bị bắt ông cùng vua Trùng Quang nhảy xuống nước tự tử. Ông mất ngày 15 tháng 12, phần mộ thất truyền”. Sách “Việt sử Thông giám Cương mục chép: “Nửa đường vua Quý Khoáng nhảy xuống nước, Dung cũng chết theo. Chỉ có Suý bị (giám thủ) bắt giữ, bèn hàng ngày đánh cờ, dần dần thân nhau lấy bàn cờ giết (giám thủ) rồi Suý cũng nhảy xuống nước chết.”
     Tương truyền cuộc kháng chiến chống ách xâm lược của giặc Minh do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo thắng lợi hoàn toàn. Đoàn sứ bộ nhà Hậu Lê sang Bắc Kinh đặt quan hệ bang giao. Vua Minh hí hửng dẫn sứ giả đến xem chiếc thuyền “chiến lợi phẩm” chở vua Trùng Quang và bài thơ “Cảm Hoài”. Thương cảm, quý trọng ông Đặng Dung, người gác thù riêng để đền nợ nước, sứ giả nhà Lê nhập tâm bút tích của ông mang về nước truyền bá rộng rãi. Bài thơ được chép trong gia phả họ Đặng. Nguyên văn chữ Hán chép như sau:
Thế sự du du nãi lão hà*
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị bảo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma

Dịch thơ:
Việc nước chưa xong tuổi đã già
Đất trời chung một cuộc ngâm nga
Gặp thời vận đến thành công dễ
Lỡ vận anh hùng dạ xót xa
Gặp chúa những mong xoay trục đất
Giữa dòng không lối nối Ngân Hà
Việc nước chưa xong đầu đã bạc
Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà.

(Bản dịch Gia phả họ Đặng của Phạm Thị Hoa- Viện Hán Nôm)
Có lần vua Lê Thái Tổ viếng quê hương ông có cảm khái đề câu đối: 
Quốc sĩ vô song song Quốc sĩ
Anh hùng bất nhị nhị Anh hùng

      Cuộc khởi nghĩa của hai cha con ông và vua tôi nhà Hậu Trần tuy thất bại nhưng gương tiết liệt của danh nhân Đặng Tất, Đặng Dung là sự thể hiện bản sắc văn hoá ý chí quật cường: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của dân tộc ta. Sự thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc bằng tinh thần yêu nước, ý chí trung nghĩa quê hương núi Hồng sông Lam, đất Việt Thường nói riêng cả nước nói chung. Từ xưa tới nay danh nhân Lịch sử - Văn hoá Đặng Tất, Đặng Dung được quốc sử đánh giá rất cao. Nhân dân quý trọng yêu mến hai người anh hùng, người trung nghĩa, vì nước xả thân, vì dân đánh giặc.
       Danh nhân Đặng Tất, Đặng Dung được vua phong Hùng kính tráng, Trung nghĩa thần. Đặng Dung được sắc phong “Cao Sơn Hầu” ban cho tám chữ vàng: “Tiết liệt cương trung” “Trung thần hiếu tử”. Các vương triều Lê, Nguyễn đều có sắc phong thần. 
        Hiện nay đền thờ của hai danh nhân, hai anh hùng vẫn còn ở quê nhà Tùng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Năm 1991, Bộ Văn hoá –Thông tin ( Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch) đã công nhận, xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia. Đền thờ của hai ông đã được tôn tạo khang trang, to đẹp, xứng tầm quốc gia.


Đặng Viết Tường


Hiệu đính:* Theo cố Thái Kim Đỉnh, nhà nghiên cứu văn hoá Hà Tĩnh hiệu  đính thì bài thơ “Cảm Hoài” do Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 -1784) sưu tầm chép lần đầu tiên trong bộ: “Toàn Việt Thi Lục”, sau đó Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744 – 1818) lại chọn chép trong bộ Hoàng Việt Thi Tuyển. Nghiên cứu gia phả họ Đặng ở Chương Đức, không thấy việc Đặng Tiến Thự (1631 – 1698) sưu tầm bài thơ “Cảm Hoài”. Tổng binh Đặng Ngụ Quế cũng chép vào gia phả năm 1654. Thái Kim Đỉnh nghĩ bản của Đặng Ngụ Quế chép trong gia phả cổ hơn, ông đã trính dẫn bản sưu tầm của Đặng Ngụ Quế. 

. . . . .
Loading the player...