19-08-2025 - 01:10

Cách mạng tháng Tám và những chặng đường lịch sử vẻ vang của văn hóa, văn nghệ Việt Nam

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2025) và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025), Tạp chí Hồng Lĩnh số 228, tháng 8/2025 trân trọng giới thiệu bài viết “Cách mạng tháng Tám và những chặng đường lịch sử vẻ vang của văn hóa, văn nghệ Việt Nam” của tác giả Bình Chi

Mùa thu năm 1945 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một khúc tráng ca bất tử, mùa thu của Cách mạng Tháng Tám, cuộc tổng khởi nghĩa vĩ đại của nhân dân Việt Nam nhằm đập tan xiềng xích nô lệ, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho đất nước. Cuộc cách mạng này không chỉ đơn thuần là một sự kiện chính trị, mà là sự kết tinh rực rỡ của ý chí kiên cường và khát vọng tự chủ cháy bỏng đã được hun đúc suốt hàng nghìn năm.

Trước năm 1945, đất nước Việt Nam đã phải chịu đựng ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp suốt hơn 80 năm, tiếp đó là gần 5 năm đô hộ khắc nghiệt dưới ách quân phiệt Nhật (1940 - 1945). Nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1944 - 1945) khiến hơn 2 triệu người chết, đã đẩy xã hội đến bờ vực sụp đổ, làm dấy lên làn sóng phẫn nộ trong quần chúng. Giữa bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Đông Dương (sau là Đảng Cộng sản Việt Nam), dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã chủ động chuẩn bị lực lượng, phát động phong trào cách mạng sâu rộng trong cả nước. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (tháng 3/1945) đã xác định rõ phương hướng hành động, nêu cao nhiệm vụ giành chính quyền về tay nhân dân. Khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện vào ngày 15/8/1945, thời cơ “ngàn năm có một” đã đến. Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân tại Tân Trào ngay lập tức quyết định Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Từ ngày 14 - 28/8/1945, chỉ trong 15 ngày, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu. Ngày 19/8/1945, Hà Nội giành chính quyền, mở đầu cho làn sóng cách mạng lan khắp cả nước. Đến ngày 28/8, chính quyền về tay nhân dân trên cả ba miền. Đỉnh cao là ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Cách mạng tháng Tám là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử toàn cầu. Đây là lần đầu tiên trong thế kỷ XX, một dân tộc thuộc địa đã tự mình đứng lên giành độc lập, chấm dứt vĩnh viễn hơn 80 năm nô lệ, đưa Việt Nam từ một nước thuộc địa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Cách mạng đã thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu bước ngoặt trong tiến trình cách mạng nước ta. Đây là nền dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Thành công của cuộc cách mạng đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các dân tộc bị áp bức tại châu Á, châu Phi và Mỹ Latin, khẳng định rằng với sự lãnh đạo đúng đắn và sự đoàn kết toàn dân, độc lập và tự do là điều hoàn toàn có thể đạt được. Thắng lợi này là minh chứng sống động cho đường lối cách mạng đúng đắn, linh hoạt và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như tài thao lược và tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng đã biết nắm bắt thời cơ, huy động sức mạnh toàn dân để biến khát vọng ngàn đời thành hiện thực vĩ đại.

Không chỉ vậy, Cách mạng tháng Tám năm 1945 còn có ý nghĩa sâu sắc, tạo ra bước chuyển mình mạnh mẽ, khai phóng cho văn hóa và văn nghệ Việt Nam. Trải qua 80 năm kể từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, văn hoá, văn nghệ Việt Nam đã đồng hành cùng dân tộc trên một chặng đường lịch sử nhiều biến động nhưng rất vẻ vang. Được đặt nền móng từ Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943, nền văn hoá cách mạng từng bước khẳng định vai trò là một trong ba mặt trận quan trọng cùng với chính trị và kinh tế, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đề cương văn hoá 1943 nêu rõ: “Văn hoá là một mặt trận. Anh chị em văn hoá là chiến sĩ trên mặt trận ấy”[1]. Quan điểm mang tính hiệu triệu này đã xác lập vai trò chiến lược của văn hoá đối với sự nghiệp cách mạng. Ba nguyên tắc “dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá” được đề ra trong Đề cương đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động văn hoá, nghệ thuật suốt 80 năm qua [2]. Từ đây, các nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ… đã gắn bó máu thịt với quần chúng, phản ánh hiện thực đấu tranh và lao động, nâng cao tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng.

Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa và kháng chiến chống Pháp (trước 1954), văn hoá, văn nghệ cách mạng là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng: đấu tranh giác ngộ quần chúng, cổ vũ tinh thần yêu nước và kêu gọi đấu tranh giành độc lập. Nhiều tác phẩm tiêu biểu đã ra đời, mang hơi thở của thời đại. Về thơ ca, có Từ ấy (Tố Hữu), Ngọn quốc kỳ (Xuân Diệu); về văn xuôi, có Vỡ bờ, Xung kích (Nguyễn Đình Thi); về âm nhạc, có Tiến quân ca (Văn Cao), Du kích ca (Đỗ Nhuận); về sân khấu, có vở Bắc Sơn (Nguyễn Huy Tưởng); về mỹ thuật, nhiếp ảnh, tiêu biểu là các tác phẩm của Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Phan Chánh…

Tính đến năm 1954, cả nước đã có hơn 100 tờ báo, tạp chí văn hoá được xuất bản; hơn 20 hội văn học nghệ thuật được thành lập; hàng nghìn tác phẩm văn học, âm nhạc, hội hoạ ra đời, phản ánh sinh động hiện thực cách mạng và kháng chiến [3]. Văn hoá và văn nghệ thực sự trở thành "binh chủng xung kích" trên mặt trận tư tưởng, phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”.

Giai đoạn kháng chiến kiến quốc (1954 - 1975) là thời kỳ đỉnh cao của văn nghệ cách mạng, khi tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc và hình tượng anh hùng cách mạng được thể hiện đa dạng qua nhiều loại hình nghệ thuật. Văn nghệ sĩ đã có mặt ở khắp các chiến trường, từ chiến khu Việt Bắc đến tuyến lửa miền Nam. Họ sống, chiến đấu và sáng tác cùng bộ đội, dân công, thanh niên xung phong, để cho ra đời những tác phẩm bất hủ, trở thành nguồn động viên tinh thần vô giá cho toàn dân tộc. Đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ, các phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”, “Văn công ra mặt trận”, “Tranh cổ động ra chiến hào”… đã lan toả mạnh mẽ, cổ vũ ý chí chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc.

Thời kỳ này, nhiều tác phẩm như những“bài ca ra trận” đã ra đời. Về thơ, có các tập Ra trận, Gió lộng (Tố Hữu), cùng những thi phẩm giàu chất lửa như Dáng đứng Việt Nam (Lê Anh Xuân), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật). Về văn xuôi, có tiểu thuyết Đất nước đứng lên, truyện Rừng xà nu (Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành), Hòn Đất (Anh Đức), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng). Về âm nhạc, tiêu biểu có các ca khúc Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây, Cô gái vót chông (Hoàng Hiệp), Tiến về Sài Gòn (Lưu Hữu Phước), Bài ca không quên (Phạm Minh Tuấn), Bài ca hy vọng (Văn Ký). Về điện ảnh, có những bộ phim kinh điển: Chung một dòng sông, Vĩ tuyến 17 - Ngày và đêm, Em bé Hà Nội. Về mỹ thuật, xuất hiện nhiều tác phẩm tranh cổ động và tranh sơn dầu đặc sắc của các hoạ sĩ Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Tiến Chung, Lương Xuân Nhị. Sân khấu cách mạng cũng phát triển mạnh mẽ với kịch nói, chèo cải lương phục vụ bộ đội và nhân dân.

Bên cạnh nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến, văn hoá, văn nghệ giai đoạn này còn góp phần quan trọng vào công cuộc kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nhiều tác phẩm phản ánh cuộc sống lao động, sản xuất, xây dựng hợp tác xã, phát triển giáo dục, y tế... đã hình thành những giá trị mới, cổ vũ tinh thần hăng say lao động và cống hiến của nhân dân hậu phương.

Bước sang thời kỳ đổi mới bắt đầu từ 1986, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [4]. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong các văn kiện như Cương lĩnh xây dựng đất nước (1991), Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), Nghị quyết 33-NQ/TW (2014) và gần đây là Kết luận 76-KL/TW (2020). Giai đoạn này, sự nghiệp văn hoá - văn nghệ bước vào thời kỳ đa dạng hoá và hội nhập, nhưng vẫn giữ vững bản sắc dân tộc. Văn nghệ mở rộng biên độ phản ánh đời sống xã hội đa chiều, đặt con người cá nhân vào vị trí trung tâm của sáng tạo. Về văn học, xuất hiện những tác phẩm tiêu biểu như Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Tướng về hưu, Kiếm sắc (Nguyễn Huy Thiệp), Thời xa vắng (Lê Lựu), Sống chậm thời @ (tập tản văn của Nguyễn Ngọc Tư và Lê Thiếu Nhơn). Về âm nhạc, các nhạc sĩ Phú Quang, Dương Thụ, Hồ Hoài Anh, Lưu Thiên Hương đã định hình dòng nhạc trữ tình hiện đại giàu bản sắc. Về điện ảnh, có các bộ phim đặc sắc như Bao giờ cho đến tháng 10 (Đặng Nhật Minh) và Áo lụa Hà Đông (Lưu Huỳnh), đánh dấu bước tiến của điện ảnh Việt thời kỳ đổi mới. Về sân khấu, nổi bật có các vở kịch như Lão hà tiện, Đời cười, Người tốt nhà số 5 là những thử nghiệm mới mẻ mang tính thời sự. Về mỹ thuật, xuất hiện thế hệ hoạ sĩ đương đại tiêu biểu như Lê Thiết Cương, Đỗ Duy Tuấn, Nguyễn Thế Sơn. Lĩnh vực nhiếp ảnh cũng có những gương mặt mới như Đỗ Hồng Ngọc, Hữu Bảo, Đào Hoa Nữ phản ánh sinh động xã hội thời mở cửa.

Trong 10 năm (2013 - 2023), trung bình mỗi năm Việt Nam có hàng nghìn đầu sách mới được xuất bản, hơn 500 bộ phim truyện và phim tài liệu được sản xuất, cùng hàng chục triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu diễn ra từ trung ương đến địa phương [5].

Bước vào giai đoạn hội nhập, văn hoá, văn nghệ Việt Nam đã lan toả ra thế giới nhờ công nghệ, truyền thông số và giao lưu quốc tế. Nhiều tác giả, tác phẩm của ta đã được công chúng trong và ngoài nước nhiệt tình đón nhận. Ở lĩnh vực âm nhạc, - giải trí, các nghệ sĩ trẻ như Sơn Tùng M-TP, Suboi, Hoàng Thuỳ Linh, Erik, AMEE đã đưa nhạc Việt tiếp cận thị trường quốc tế (nhất là qua các nền tảng số). Album LINK của Hoàng Thuỳ Linh đã nhận 3 giải Cống hiến năm 2023 (Ca sĩ của năm, MV của năm, Album của năm). Về điện ảnh – truyền hình, phim Ròm đoạt giải New Currents tại LHP quốc tế Busan 2019; phim Tro tàn rực rỡ giành giải Khinh khí cầu vàng tại LHP “Ba châu lục” năm 2022 (Nantes, Pháp) và được chọn làm đại diện của Việt Nam dự sơ tuyển Oscar lần thứ 96 (2024). Bên cạnh đó, các web-drama, phim chiếu mạng như Chuyện xóm tui, Nhà bà Nữ, Người vợ quốc dân cũng gây tiếng vang, thu hút hàng chục triệu lượt xem. Văn học trên nền tảng số tuy hình thành chưa lâu nhưng đã có những dấu ấn nhất định: thể loại truyện tương tác, tiểu thuyết mạng phát triển mạnh mẽ với nhiều tác giả trẻ như Lục Xu, Khánh Linh, Minh Nhật, Hạ Vũ…, tạo ảnh hưởng lớn trong giới trẻ. Các hình thức sáng tạo nội dung mới trên TikTok, YouTube, Podcast (video ngắn, rap freestyle, hoạt hình lịch sử như Sử ký Việt, Việt sử giai thoại…) cũng thu hút hàng triệu lượt tương tác.

Cùng với đó, việc số hóa các di sản văn hoá truyền thống đang được đẩy mạnh. Các loại hình di sản phi vật thể như hát Xoan, dân ca Ví Giặm, ca trù, múa rối nước, nghệ thuật Bài Chòi... đã được ghi lại và giới thiệu qua những nền tảng hiện đại (Google Arts & Culture, ứng dụng Zalo AI, bảo tàng số 3D...). Từ năm 2022, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai Đề án số hóa di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu với mục tiêu đến năm 2030 số hoá 100% các di sản văn hoá phi vật thể được công nhận [6].

Tuy đạt nhiều thành tựu, văn hoá, văn nghệ Việt Nam hiện vẫn đối mặt với không ít thách thức. Đó là sự xâm nhập ồ ạt của các dòng văn hoá ngoại lai thiếu chọn lọc; sự xuống cấp về thị hiếu thẩm mỹ và chất lượng sáng tác trong một bộ phận công chúng và nghệ sĩ; đặc biệt là nguy cơ thương mại hoá, đánh mất cội rễ và bản sắc dân tộc. Theo khảo sát của Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (2022), có tới 58% người trẻ từ 16 đến 30 tuổi thường xuyên tiếp cận văn hóa giải trí qua nền tảng mạng xã hội, nhưng phần lớn là nội dung giải trí ngắn, thiên về thị hiếu bề nổi và thiếu chiều sâu giá trị [7]. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về định hướng thẩm mỹ và giáo dục văn hoá cho giới trẻ trong kỷ nguyên số.

Theo Báo cáo Toàn cầu của UNESCO, sức mạnh mềm văn hoá đang trở thành yếu tố then chốt trong định vị hình ảnh quốc gia. Việt Nam hiện có 15 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh [8] đã tạo nên hình ảnh đẹp trong mắt bạn bè quốc tế. Bên cạnh đó, các lĩnh vực như âm nhạc, điện ảnh, ẩm thực, thời trang của Việt Nam cũng đang từng bước khẳng định vị thế trong khu vực. Những bộ phim như Mắt biếc, Bố già, Tro tàn rực rỡ cùng thành công của các nghệ sĩ giành giải thưởng quốc tế (như nghệ sĩ piano Đặng Thái Sơn, ca sĩ Hoàng Thùy Linh, diễn viên, đạo diễn Trấn Thành...) đã và đang góp phần quảng bá mạnh mẽ hình ảnh văn hoá Việt Nam ra với thế giới.

80 năm, một chặng đường vẻ vang của nền văn hoá, văn nghệ Việt Nam. Từ những vần thơ, những ca khúc thời khói lửa, đến những thước phim thời đổi mới và những sáng tạo nghệ thuật số hôm nay, tất cả đã kết nối thành mạch nguồn mãnh liệt chảy trong hồn dân tộc. Giữ gìn, phát triển và phát huy nền văn hoá ấy không chỉ là trách nhiệm của những người làm văn hoá, văn nghệ mà còn là sứ mệnh của cả dân tộc trên con đường xây dựng một Việt Nam phát triển, nhân văn, hội nhập sâu rộng nhưng vẫn đậm đà bản sắc.

Tiếp nối truyền thống 80 năm vẻ vang, những người làm văn hoá, văn nghệ hôm nay phải “có ý thức trách nhiệm cao”, sáng tạo nên những tác phẩm có chiều sâu tư tưởng, giá trị nghệ thuật cao và phù hợp với thời đại. Có như vậy văn hoá, văn nghệ Việt Nam không chỉ trường tồn mà còn vươn cao, vươn xa trong khu vực và thế giới./.

B.C

________________

Tài liệu tham khảo, chú thích

1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2023), Đề cương về văn hoá Việt Nam (1943) Giá trị và sức sống. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.5.

2. Ban Tuyên giáo Trung ương (2023), Đề cương về văn hoá Việt Nam (1943) – Giá trị và sức sống. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.6.

3. Hội Nhà văn Việt Nam (2012), Văn học cách mạng Việt Nam (1945–1975). NXB Hội Nhà văn, tr.24.

4. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Tập I. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.89.

5. Tổng cục Thống kê (2024), Niên giám Thống kê Văn hóa – Thể thao – Du lịch Việt Nam 2023, tr.66.

6. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2022)  Đề án số hóa di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu. Hà Nội, tr 8.

7. Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (2022), Báo cáo khảo sát thói quen tiếp cận văn hóa của giới trẻ Việt Nam năm, tr34.

8. UNESCO (2023), Báo cáo Toàn cầu: Định hình lại chính sách cho sự sáng tạo năm 2023. Paris, 2023, tr.17.

. . . . .
Loading the player...