Tạp chí Hồng Lĩnh số Tết Ất Tỵ 2025 (221+222) trân trọng giới thiệu Bút ký LÀNG THỢ BẠC NAM TRỊ của Phạm Hưng
Làng thợ bạc Nam Trị
Bút ký
PHẠM HƯNG
Làng tôi, với Lũy tre xanh ôm lấy những ngôi nhà ngói, nhà tranh, những cây đa, bến nước, những kênh ngòi ôm lấy thôn xóm, hoặc lách qua làng để rồi tất cả đổ ra sông Đò Hà... Hối hả chảy ra biển. Người dân vùng này vẫn quen gọi đó là làng “Thợ bạc”. Theo bản đồ địa chính thời thuộc Pháp thì làng Thợ bạc bao gồm hầu hết vùng đất xã Thạch Trị và một phần đất Thạch Lạc bây giờ.
Dân ở làng này, ngoài nghề nông ra còn có cái nghề cha truyền, con nối mà nhiều khi vị trí kinh tế của nó còn được coi trọng hơn cả nghề nông đó là nghề thợ bạc (kim hoàn). Đôi tay “vàng”của nghệ nhân Nam Trị bao đời đã làm ra đủ mặt hàng mỹ nghệ hết sức tinh xảo: dây chuyền, quả đào, hoa tai v.v... bằng vàng hoặc bằng bạc. Những bộ ấm chén, uống trà hoặc uống rượu, miệng được bít đồng, bít bạc bóng loáng không những nói lên sự tinh xảo của những bàn tay thợ mà còn thể hiện bản chất tiết kiệm “của bền tại người’' của người dân làng này. Họ thể hiện cái tâm, cái đức của mình qua sản phẩm. Đó là thứ “ngôn ngữ” độc đáo của nghệ nhân Nam Trị đối với con cháu đời sau. Đặc biệt có những sản phẩm, hay đúng hơn là những tác phẩm, như bộ chén uống trà làm bằng bạc, hay những cái khay gỗ mun được khảm bằng xà cừ (phần vỏ trong của con trai) vẽ cảnh cây đa bến nước hoặc miêu tả một câu chuyện cổ như “Tam anh chiến lữ bố” hoặc “Lã vọng câu cá v.v...” có chú thích bằng chữ hán... Tất cả những mặt hàng đó là những công trình điêu khắc, sáng tạo độc đáo của nghệ nhân Nam Trị làm ra. Người dân ven biển ngang này thì quen gọi đó là của thợ bạc Nam Trị.
Nghề thợ bạc ở Nam Trị có từ bao giờ? Và ai là người đầu tiên mang cái nghề này đến cho dân làng ở đây? Câu hỏi đó chưa ai trả lời chính xác được. Chỉ biết rằng: Từ xưa lắm, người dân quê tôi đã biết làm vàng, làm bạc bằng những dụng cụ và công đoạn thủ cổng rất thô sơ, mà đã tạo được những mặt hàng tuyệt vời tinh xảo. “Tay anh làm vàng, tay em chạm bạc”. Hình như câu hát đó được cất lên từ làng này từ thuở xưa, rồi nó mới tới đất Thái Bình. Khi tôi lớn lên chừng 5,6 tuổi, đã được uống nước “chè Tàu” do những người thợ bạc ở Nam Trị đi làm nghề ở Thanh Hóa mang về vào dịp tết. Nước chè được rót qua vòi ấm bít bạc. Nước lách qua vòi, sóng sánh màu mật ong. Hương trà tỏa ra thơm phức. Các cụ quần Tây cống, áo dài thâm, còn các anh thợ trẻ thì quần âu, áo gile, hoặc ba - đờ - xuy dạ theo kiểu Pháp. Họ ngồi quây quần bên chiếc chiếu hoa đàm đạo về chuyện đời, chuyện nghề; và thưởng thức những chén trà đầu xuân. Trong đầu tôi còn đọng lại dư âm câu nói của các cụ, các anh thợ thuở ấy: “Ai hiểu được giá trị của nghề này là vàng! Ai không hiểu được thì là bạc theo nghĩa bóng của nó...
Làng thợ bạc quê tôi nằm gối đầu lên động cát trắng chạy song song với bờ biển. Người ở xa đến, thấy ngay cảnh nghèo đói qua những động cát bạc màu cùng với những ruộng lúa, nương khoai cằn cỗi; thoi thóp, bám rễ vào dải đất vàng ố nước chua bởi phèn từ mỏ sắt Thạch Khê. Đã thế, hàng năm ông trời lại dành cho vài ba trận bão, cùng với những đợt sóng thần bất thình lình ập xuống. Nhà đổ, khoai lúa bị cuốn trôi. Dân làng phải sống cảnh rau, cháo qua ngày!... Đó là những cảnh của năm năm mươi về trước. Những người con phải bỏ làng ra đi kiếm kế sinh nhai! Và chắc đó cũng là một trong những nguyên nhân làng có tên là làng “thợ bạc”.
Ông nội thân sinh ra bố tôi là cụ Phạm Viết Dụ kể lại rằng: “Nghề thợ bạc ở quê tôi, do một người họ Phạm Viết đói quá, phải bỏ làng ra tới miền đất Nam Định để học nghề kim hoàn. Hàng ngày ông này phải gánh nước thuê và thổi bễ cho một ông chủ hiệu kim hoàn người Hoa. Quyết tâm nuôi chí học nghề, ông họ Phạm này phải mất thời gian trên chục năm mới nắm được thông thạo cái bí quyết nghề thợ bạc. Ít lâu sau ông mang về truyền lại cho con cháu trong dòng họ của mình. Thế là nghề thợ bạc ở Nam Trị có từ ngày đó. Dòng họ Phạm Viết hành nghề đầu tiên ở đất này. Sau đó mới lan truyền ra các dòng họ khác như họ Hồ, họ Trần, họ Dương, họ Nguyễn v.v...
Các nghệ nhân trong xưởng bạc . Ảnh: Minh Toàn.
Vào những năm 20, một số thợ bạc Nam Trị được vua Khải Định triệu vào Nam Triều làm hàng mỹ nghệ như nhẫn, dây chuyền, quả đào, lư hương... để gửi sang Pháp cúng Mẫu quốc. Những mặt hàng trang sức này được chính phủ bảo hộ Paris rất cảm phục, ưa chuộng. Các tay thợ siêu hạng này được nhận ấn phẩm của nhà vua ban tặng, hiện ông Phạm Viết Cẩm con trai ông Phạm Viết Hảo còn cất giữ.
Ông Phạm Viết Cẩm là con trai ông Phạm Viết Hảo cháu nội cụ Phạm Viết Dự. Vào những năm 30 theo bố và chú Phạm Viết Mỹ ra Thanh Hóa học nghề.
Ông Cẩm kể lại cho tôi nghe về quãng đời học thợ của ông vất vả và lý thú lắm "Nếu người nghệ sĩ học đàn mười ngón tay phải lướt trên phím dẻo như là làm xiếc, thì người thợ kim hoàn cũng phải luyện đôi bàn tay thần kỳ như vậy mới có thể cầm kìm, đánh búa để uốn những vòng dây vàng, dây bạc có đường kính cực nhỏ tới hàng li hoặc chạm trổ những hoa văn cầu kì mà mắt thường cũng khó thấy. Đặc biệt nghề thợ bạc phải chế cho được một thứ “vảy” để hàn. Vảy là một loại vàng thấp tuổi; có khi hàn 2 mối dây hoặc liên kết các bộ phận lại với nhau người ta buộc phải dùng thứ vảy này. Khi hàn đầu mối hàn đã có nhiệt độ cần thiết, vảy này chảy trước, kéo theo hai đầu mối vật hàn dính chặt vào nhau. Mối hàn trở nên bóng loáng, người khác không thể phát hiện ra. Theo ông Cẩm thì công thức pha chế loại vảy này mới là bí quyết chính của thợ kim hoàn. Vì vậy, cũng là nghề thợ bạc cả, nhưng thợ bạc Nam Trị có tay nghề hơn hẳn các thợ ở nơi khác là vì họ đã chế được thứ máy lợi hại hơn. Là con cháu họ tộc Phạm Viết ở làng thợ bạc Nam Trị, nên tôi có đôi chút kiến thức về công việc chế váy hàn như sau: Người thợ bạc nặn một loạt nồi đất nhỏ bằng quả trứng gà, có vung đậy hẳn hoi. Đất sét được nhào nặn thật kỹ, sau đó trộn với một thứ cất sạn và một chất keo dính, Nồi nặn xong được miết thật trơn, nung đến độ hoá sành thì mới dùng để nấu vảy. Vảy chủ yếu đồng thau, cộng một ít đồng cỏ. (Công đoạn này tôi nắm chưa thật chắc vì đây là bí quyết của nghệ nhân Nam Trị vũ khí lợi hại nhất để cạnh tranh nghề với các vùng quê khác nhau nên không được phép nói cặn kẽ ra đây)...
Sau một thời gian dài, lang thang theo bố và chú khắp Nghệ An, Thanh Hoá học nghề ông Cẩm lại trở về thành phố Thanh Hoá mở hiệu vàng tư. Năm 1945 ông tham gia cách mạng trong đội tự vệ thành Thanh Hoá. Năm 1950, ông được cử sang phụ trách cửa hàng mỹ nghệ vàng bạc, thuộc ngân hàng Thành phố Thanh Hoá. Cửa hàng do ông phụ trách có nhiệm vụ gia công, chế tác các mặt hàng mỹ nghệ vàng bạc như nhẫn, quả đào, dây chuyền, hoa tai v.v... Trong số 12 thợ kim hoàn do ông quản lý chỉ có 4 người thợ là gốc quê Thanh Hoá còn lại là thợ người quê Hà Tĩnh. Đặc biệt trong số đó có 7 thợ là người Nam Trị. Nói đến chí hành nghề của thợ bạc Nam Trị có rất nhiều giai thoại khiến ta phải cảm phục đến kinh ngạc, Thời gian trước năm 1945 thợ bạc Nam Trị ra Thanh Hoá hành nghề vô cùng vất vả. Thời đó ô tô rất hiếm. Họ phải đi bộ từ Thạch Hà ra tới đất Thanh gần 200 cây số. Vậy mà đoàn thợ cứ khăn gói lầm lũi mải miết ra đi. “Tối đâu là nhà, ngạ đâu là giường”. Khi ra tới địa điểm thì hai cẳng chân đã sưng lên như hai ống bễ. Thuốc thang xoa bóp hàng tuần mới khỏi. Dụng cụ hành nghề thợ bạc hồi đó rất thô sơ, gồm một cái bễ bằng gỗ tròn có đường kính 20cm, dài 40cm. Pít thông tạo hơi chỉ là một bó lông gà. Dụng cụ gia công chế tác chỉ có mấy cái búa, vài cái kìm, đột, chạm v.v... Vậy mà với đôi tay “Vàng” và óc sáng tạo của mình, nghệ nhân Nam Trị làm ra đủ mặt hàng tinh xảo và độc đáo: quả đào, dây chuyền kép, dây chuyền đơn, nhẫn mặt đá... khách hàng hết sức ưa chuộng.
Ngày nay, vào bất cứ nhà nào ở Nam Trị, ta cũng nhìn thấy những cái khay khảm xà cừ, những cái ấm trà, bộ chén mà miệng và vòi được bít bằng đồng hoặc bằng bạc với những đường nét trang trí, kiểu dáng hoa văn độc đáo, hoặc những lư hương bằng đồng trên đó chạm trổ những con rồng, con phượng rất đẹp mắt. Đó là sản phẩm được lưu truyền từ đời này sang đời khác của các đời thợ bạc Nam Trị.
Tất cả các đền ở làng như đền Phú Hậu thờ thần Nông, đền Ao thờ Tam Lang Long Vương, đền Quan Nghè thờ tiến sỹ Nguyễn Văn Suyền vị tiến sỹ đầu tiên của làng đều còn bảng liệt kê danh sách cung thỉnh của các thợ bạc Nam Trị đóng góp tiền của để làm nên nét văn hoá riêng của làng.
Nghề vàng, nghề bạc cũng phải kiếm nơi nào có vàng có bạc mới mở mang được nghề nghiệp, mới có cơ may nuôi sống nghề, chứ ở nơi đồng chua, cát bạc này thì lấy đâu ra vàng ra bạc mà làm? Mà có làm cũng biết bán cho ai? Vì vậy thợ bạc Nam Trị phải bỏ làng mình mà đi khắp nơi. Cuối cùng rồi họ tụ lại ở Nghệ An và Thanh Hoá nhiều nhất.
Vào những năm 1930, ông Hà Trung và ông Cò Xiên dời nhà ở Nam Trị lên Thành phố Hà Tĩnh hành nghề. Các tiệm vàng hiện nay ở Hà Tĩnh đều có gốc gác họ hàng xa gần với hai ông này. Thế nhưng vẫn còn ít người biết được điều đó. Ở thành phố Thanh Hoá có những tiệm vàng lớn vào bậc nhất nhì như tiệm vàng Kim Chung, hiệu vàng Mai Linh Châu, hiệu vàng Phương Thảo... đều là gốc Nam Trị. Doanh số bán buôn hàng ngày lên tới hàng trăm triệu đồng. Vào dịp tết cửa hàng Mai Linh Châu, Kim Chung hán tới 80 đến 100 triệu đồng/ngày.
Đặc biệt tiệm vàng Mai Linh Châu con trai ông Phạm Cẩm, gốc Nam Trị có tới 11 thợ làm liên tục mới có hàng phục vụ khách. Bây giờ với phương tiện máy móc hiện đại và khoa học tiên tiến, việc nấu vàng không phải dùng bằng bễ lông gà để thổi than như ngày xưa nữa mà họ đã dùng phương pháp nấu, lọc vàng bằng các loại axit cực mạnh.
Tôi được nhiều lần tận mắt chứng kiến các công đoạn gia công, chế tác những mặt hàng vàng bạc tại tiệm vàng Mai Linh Châu, được tiếp xúc với các loại máy móc hiện đại như: Máy cân đo phân ly vàng bằng nguyên lý áp lực, máy phay, máy gọt, máy đếm tiền, máy thử vàng... càng thấy bùi ngùi thương cha ông mình ngày xưa lui hui thổi cái bễ than, nặn từng nồi đất tí xíu, ăn đói nhịn khát để dắt dìu con cháu đặng mà nuôi cái “nghiệp vàng”, “nghiệp bạc” để cho nó phát triển đến bây giờ! Ngắm những cái lắc đeo tay nặng hàng cây vàng, những dây chuyền kép mặt vuông, những vòng xuyến lóng lánh tuyệt đẹp được gia công theo mẫu mã của Đài Loan, Hồng Kông, Mỹ, Pháp, v.v... chạm trổ cầu kỳ, tinh xảo, ai chẳng say mê. Nhưng mấy ai hiểu được những sản phẩm ấy lại do các tay thợ gốc Nam Trị làm ra!
Anh Nguyễn Công Chính - con trai ông Nguyễn Tạo một tay thợ rất trẻ, rất tài hoa. Chính có thể làm được tất cả các mặt hàng có trong bản mẫu của nước ngoài. Cái tài của Chính là nắm bắt thao tác các mẫu mã nhanh nhạy, với một đức tính kiên trì chịu khó cao. Tiếp theo Chính là Hồng, Sơn, Hà, Ngọc, v.v... Những tay thợ quê Nam Trị này mới ra đây làm nghề từ 4-5 năm. Thời gian chưa lâu, nhưng các anh đã có một tay nghề khá vững vàng và một trình độ tiếp thu rất nhanh. Ông Cẩm nói với tôi lương bình quân của anh em thợ này mỗi tháng từ 13 - 15 triệu đồng/tháng. Ba mươi năm làm chủ nhiệm cửa hàng mỹ nghệ vàng bạc Thanh Hoá bây giờ ông Phạm Viết Cẩm đã nghỉ hưu nhưng hàng ngày ông vẫn dành thời gian hướng dẫn cho con cháu các thủ thuật gia công chế tác và các phương pháp chạm vàng, chạm bạc theo kinh nghiệm cổ truyền của cha ông để lại.
Bây giờ, đến đất Nam Trị, ta không còn nghe tiếng cọc cạch của những cái búa dát vàng, dát bạc hoặc tiếng thở phì phò của những cái bễ thổi than nữa. Cả làng thợ bạc Nam Trị với nghề cổ truyền đã đi vào dĩ vãng! nhường chỗ cho những tiếng ồn ào của máy xay, máy xát. May mắn ở xóm Lạc Đạo (Nam Trị) đang có cụ Phạm Yêm năm nay 85 tuổi vẫn còn ngồi bên bễ than và vẫn kiên trì cọc cạch hàn cái nồi, bít cái vòi ấm, bằng đồng, bằng nhôm. Hình như cụ vần lưu luyến, muốn giữ cái nghề này không cho nó chết như tinh thần của cụ và các nghệ nhân Nam Trị không bao giờ chết bên cái bễ và cái đe búa của mình! Đúng, nghề thợ bạc Nam Trị chưa bao giờ chết nó chỉ lắng xuống theo thời gian và sự thăng trầm của lịch sử rồi lại trỗi dậy khi có thời cơ. Thời cơ chế thị trường này con cháu làng thợ bạc Nam Trị vẫn hành nghề khắp mọi làng quê mà lòng trung thực, chữ tín của họ vẫn như một nét vàng sáng chói! Mỗi lần, ngồi nâng chén trà miệng bít bạc của các nghệ nhân Nam Trị tôi lâng lâng nghĩ về quá khứ, nghĩ đến tương lai của cái nghề vàng, nghề bạc. Cái nghề mà ông cha tôi đã một thời đeo đuổi! Ngỡ như còn văng vẳng đâu đây câu hát “Tay anh làm vàng, tay anh chạm bạc làm giàu cho quê hương”.
P.H