29-04-2025 - 04:13

Bài ca giữ nước nhìn từ Trường Sa

Tạp chí Hồng Lĩnh số đặc biệt 223+224/2025 trân trọng giới thiệu tùy bút “Bài ca giữ nước nhìn từ Trường Sa” của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý

Tôi còn giữ nguyên trong lòng cảm giác lần đầu tiên được thấy Trường Sa. Một tinh mơ mùa hạ năm 2000. Bầu trời nhiều mây, mặt biển còn hơi tối, chúng tôi bật dậy khi loa trên tàu thông báo đã đi đến đảo Trường Sa. Lên boong, tôi trông về phía trước, một vệt xanh sẫm hiện lên giữa biển cả mênh mang. Trời chưa sáng lắm nhưng tôi cũng thấy được một chấm đỏ nhô lên trên vệt sẫm kéo dài kia. Đấy là cờ Tổ quốc tung bay giữa quần đảo yêu thương. Chúng tôi chuẩn bị xuống xuồng để vào đảo thì bỗng nhiên gió nổi lên, càng lúc càng lớn. Biển nhấp nhô sóng. Từng cơn sóng bạc đầu đuổi nhau vỗ ầm ầm vào mạn tàu. Bầu trời như bị ai đó kéo xuống thấp với những tảng mây đen kịt và mưa trút xối xả. Mưa. Mưa. Mưa.Tiếng mưa gõ loong coong dồn dập trên mặt boong tàu. Lần đầu tiên chứng kiến một cơn giông biển, tôi hiểu được phần nào sự thất thường dữ dội của thiên nhiên ở giữa trùng khơi mịt mùng này. Vệt đảo xa xa bị mờ khuất và đến lúc không còn thấy gì nữa trong mưa. Cơn giông biển đến đường đột nhưng rồi cũng tan đi rất nhanh. Tôi hết sức ngỡ ngàng khi thấy bầu trời bỗng nhiên quang đãng như có phép nhiệm mầu chạm vào và biển lại êm ả, êm ả không chịu nổi thế kia. Một ban mai lộng lẫy như chỉ có trong huyền thoại hiện ra, mặt trời từ từ nhô lên phía đường chân trời, biển lăn tăn những nếp cờ thắm đỏ. Đảo bình minh sắc nét trước mắt mọi người, chấm đỏ là ngọn lửa thiêng bất tử trên cao. Xuồng được hạ xuống, từng tốp người được đưa vào đảo. Văn công cùng cánh báo chí được đưa vào những chuyến đầu tiên. Khi đặt chân lên cầu cảng rồi, tôi vẫn ngỡ trong mơ. Không còn Trường Sa ở trong phim ảnh, thơ ca nữa. Đây là Trường Sa tôi được cảm nhận rõ ràng và ấm áp từ cơ thể mình; cát san hô lạo xạo dưới chân, mây trắng bay trên đầu, gió mang vị biển mặn mòi thổi qua tóc, tán cây bàng vuông xanh trong tầm ngắm và những cái bắt tay, ôm chầm của những người lính biển. Không ai bảo ai, tất cả chúng tôi cùng ùa đến bia chủ quyền, lắng vào lòng mình lời Tổ quốc thiêng liêng, vọng đến từ ngàn xưa... Thời nào, công cuộc giữ nước cũng muôn trùng gian lao và nhiều hi sinh mất mát. Vó ngựa xâm lăng đến từ phương Bắc, gót giày viễn chinh tới từ phương Tây. Bao lần dân tộc Việt đã gồng mình lên chống trả những cuộc chiến tranh tàn bạo của ngoại bang mưu toan thôn tính, chiếm đoạt, cai trị, đồng hoá nước ta.Vì thế, khát vọng độc lập tự chủ, tự cường luôn được dân tộc mình nung nấu, chưa bao giờ, chưa lúc nào bị buông bỏ.      

Lễ diễu binh trên đảo Trường Sa. Ảnh: Nguyễn Thanh Hải  

Những thiên niên kỷ đi qua, đã có bao thế hệ người dân đất Việt xả thân giữ nước, bây giờ đến lớp người đang sống trên dải đất mang dáng Rồng bay nhìn ra biển Đông bao la này. Những người lính, người dân Trường Sa bám trụ vùng biển đảo thiêng liêng, xa xôi nhất của Tổ quốc. Nơi gần đất liền nhất là đảo Đá Lát cũng khoảng 270 hải lý. Chuyến đi Trường Sa năm 2000, tôi được đặt chân đến các đảo Đá Lát, Trường Sa, Đá Tây, Trường Sa Đông, Phan Vinh, Tốc Tan, Thuyền Chài, Tiên Nữ, An Bang trước khi về một số Nhà giàn DK1 ở Ba Kè, Quế Đường, Tư Chính. Dấu ấn sâu đậm nhất về Trường Sa chính là bài ca giữ nước mang âm hưởng tự hào, kiêu hãnh, ngoan cường nhưng cũng rất mực điềm tĩnh, tự tin, an hoà của quân và dân ta. Dấu ấn ấy càng rõ nét hơn khi tôi trở lại quần đảo yêu thương lần thứ hai với hải trình qua Đá Lát, Trường Sa, Đá Tây, Phan Vinh, Núi Le sau đó về Nhà giàn DK1/20 thuộc vùng biển Ba Kè nằm trong thềm lục địa phía Nam. Trở lại Trường Sa, tôi ngỡ ngàng mừng vui trước những đổi thay của các đảo và sau chuyến đi gần nửa tháng tôi về nói với bạn bè rằng, đây chính là nơi đáng sống nhất ở nước ta hiện nay. Một không gian sạch, xanh, đẹp đúng nghĩa; một cộng đồng ấm áp tình người. Tình đồng đội, tình quân dân, tình đất liền biển đảo cứ vậy toả sáng mỗi ngày gian khổ làm nên giai điệu trữ tình của bài ca giữ nước nồng nàn. Trong chuyến đi Trường Sa lần hai, tôi gặp một số chiến sĩ sinh năm 2000. Nghĩa là, các chiến sĩ ấy cất tiếng khóc chào đời đúng vào năm tôi vượt biển ra Trường Sa lần đầu. Những chàng lính mặt trẻ tóc già tôi gặp ở Trường Sa năm ấy bây giờ ở đâu, làm gì, sướng khổ ra sao tôi chưa được biết nhưng họ đã thuộc lớp người đi trước viết bài ca giữ nước ở quần đảo phong ba này và con cái của đồng đội tôi chắc có những người đang nối tiếp cha mình làm nhiệm vụ nơi đây. Thời bình, đâu chỉ có chuyện phát triển kinh tế, vẫn lớp cha trước, lớp con sau có mặt nơi cõi bờ, cương vực của đất nước, vượt qua muôn vàn gian khó, hiểm nguy và phải chịu nhiều thiệt thòi nữa để gìn giữ chủ quyền thiêng liêng.

Một lần ra Trường Sa, cả đời nhớ Trường Sa. Vẫn còn thao thức trong tâm hồn tôi tiếng chuông chùa vọng xa trên đảo Phan Vinh, đảo Trường Sa..., tiếng trẻ bi bô đọc bài, cánh diều vải lượn bay trong chiều cùng những đám mây biển, một cơn mưa bất chợt giữa trưa hè, màu da đen cháy của lính đảo cùng nụ cười ánh mắt toả sáng... Tôi cũng không quên giọt nước mắt của một binh nhất từ gần hai mươi năm về trước khi nhận được thư nhà báo tin ông nội mất đã sáu tháng. Nhớ mãi những câu chuyện thấm đẫm tình chồng vợ, cha con từ cán bộ, chiến sĩ Trường Sa. Nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân làm sao mà quen được chứ. Nhưng tất cả đều chấp nhận, không hề kêu ca. Vì Trường Sa, vì Tổ quốc, giản dị vậy thôi! Còn nữa, mấy nấm mộ đơn sơ của những người lính trẻ đã ngã xuống khi làm nhiệm vụ ở Trường Sa.Và chúng ta càng thấm thía hơn bài học giữ nước muôn đời vẫn phải “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, vẫn Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ... như Hồ Chi Minh đã viết trong thi phẩm Học đánh cờ. Cũng như ông cha từ xưa, ta phải biết phòng giặc từ xa, luôn chăm lo cho phên dậu vững vàng, không lơ là cảnh giác. Tinh thần đó tôi thấy rất rõ ở Trường Sa, sự bình tĩnh tự tin có ở trong từng người lính, người dân ngay giữa cuộc sống đời thường. Không ồn ào, ầm ĩ, không đánh bóng khuếch trương, người lính, người dân Trường Sa yêu nước bằng sự bình tĩnh, bằng niềm tin, bằng những việc làm có lợi nhất cho Tổ quốc. Bằng văn hoá giữ nước của dân tộc, nhận biết đúng tâm địa, mạnh yếu của đối phương để có sách lược phù hợp, cương nhu tuỳ lúc, tuỳ nơi.

Đến Trường Sa lòng tôi rưng rưng khi thấy đảo nào cũng khắc ghi bản “Tuyên ngôn độc lập” thứ nhất từng âm vang trên phòng tuyến sông Cầu chống giặc Tống ở thế kỷ XI, bài thơ Nam quốc sơn hà. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam tiếp tục khai sinh những bản “Tuyên ngôn độc lập” mới như Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi soạn ra ở thế kỷ XV khi ta đánh tan tác giặc Minh và Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết và đọc trong ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là CHXHCN Việt Nam) ra đời. Khi đến đảo Phan Vinh tôi gặp một chiến sĩ sinh năm 2000, quê Cần Giuộc, Long An. Cái tên Cần Giuộc đương nhiên đã nổi tiếng với chúng ta rồi, bởi nó từng vang lên bi tráng trong bài văn tế linh hồn các nghĩa sĩ đánh giặc Pháp do cụ Đồ Chiểu viết ra. Tôi rủ chàng lính ra tấm bia có bài thơ Nam quốc sơn hà để chụp ảnh kỷ niệm. Tôi hỏi: “Thế cháu có thuộc bài thơ này không?”. Cười. Chẳng chút chần chừ, chàng lính đảo đọc: Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư - Sông núi nước Nam, Vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách Trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời! Tôi ôm chàng lính vào lòng như thể ôm con trai vậy. Cảm xúc thương mến ngập tràn. Chàng lính đảo, con trai ơi, bao thế hệ người Việt đã ghi tâm khắc cốt tinh thần Nam quốc sơn hà rồi. Và, chúng ta không chỉ giữ nước bằng thơ mà bằng lớp lớp mồ hôi, máu xương dân tộc. Chiều dài lịch sử dân tộc này đo bằng những hy sinh không kể xiết, để Tổ quốc dài rộng một giang sơn có rừng có biển, chung nguồn cội đáng tự hào, một nền hoà bình và vị thế được nhiều bạn bè trên thế giới yêu mến quý trọng như hôm nay. Có kẻ thù to lớn một thời của dân tộc đã trở thành bè bạn, đối tác. Ứng xử ấy không phải ai cũng làm được.Tôi nghĩ, họ làm bạn với Việt Nam đâu phải vì ta giàu mạnh mà cái chính là đã nhận ra được sự sâu sắc và chân thành trong bình dị văn hoá Việt luôn đề cao nhân hoà. Thế đấy, một dân tộc chưa bao giờ chịu khuất phục trước các kẻ thù cường mạnh lại rất thấm thía Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Sức nước mạnh bởi lòng dân tụ. Đúc kết ấy không có gì mới cả nhưng nó vẫn tràn trề sức sống, vẫn tươi tốt trong mỗi ngày ta sống. Trường Sa là minh chứng sinh động nhất của sự quy tụ lòng dân. Cũng như bài thơ Nam quốc sơn hà là của muôn dân, muôn đời vậy. Ra Trường Sa, giữa Trường Sa, tôi đọc Nam quốc sơn hà bằng trái tim và khi nghe một chiến sĩ tuổi mười chín đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” lần thứ nhất đó tôi thực sự xúc động. Một bài thơ đi suốt mười thế kỷ vẫn mang ý nghĩa tươi rói. Cái gì làm nên điều đó nếu không phải là lòng yêu nước nồng nàn. Lòng yêu nước đồng hành cùng dân tộc như dòng chảy chưa bao giờ vơi. Mỗi con người Việt Nam, dù ở đâu hay làm gì đều mang một Nam quốc sơn hà trong mình. Đấy là cách xác lập chủ quyền bất khả xâm phạm của non sông này.

N.H.Q

. . . . .
Loading the player...