26-09-2025 - 23:35

Tô Ngọc Vân – Họa sĩ duy mỹ

Nếu tính từ cuộc bày tranh đầu tiên của họa sĩ Tô Ngọc Vân tại Sài Gòn (17/12/1930) đến ngày ông hy sinh ở chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, thì cuộc đời sáng tác của ông trọn hai mươi bốn năm. Với hai giai đoạn sáng tác 1930 – 1945 và 1945 – 1954. Lịch sử xã hội đã ảnh hưởng đến sự nghiệp sáng tác của ông. Và nếu nghệ thuật phản ánh đúng những biến động trong quan hệ xã hội, thì tác phẩm của Tô Ngọc Vân phần nào chứng minh cho những biến động đó.

Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương thành lập năm 1925. Khóa đầu 1925 – 1930 có Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Văn Đệ, Công Văn Trung, Georges Khánh… Tô Ngọc Vân học khóa thứ hai 1926 – 1931.

Những năm tháng học trong trường với các giáo sư người Pháp và học lịch sử nghệ thuật, kỹ thuật hội họa phương Tây, Tô Ngọc Vân đã nhanh chóng tiếp thu phương pháp dựng hình bằng những khối nổi và đưa vào tranh màu sắc thiên nhiên gần gũi . Ông đã nhen nhóm cho mình một tâm hồn màu sắc ngay từ những buổi đầu nhập môn mỹ thuật, để rồi cho ra đời những tác phẩ’m xao xuyến lòng người qua những kỳ bày tranh sau này. Họa sĩ Trần Bình Lộc từng viết trên báo Phong Hóa năm 1934: “Trong lĩnh vực hội họa, nghề nghiệp của Tô Ngọc Vân rất đáng ca ngợi, bởi ông có một cái nhìn – một phẩ’m chất hiếm có – mà không phải họa sĩ nào cũng có”.

Ngay từ buổi đầu ông không chấp nhận một khuôn thước lý tưởng nghệ thuật Hy Lạp, La Mã cổ đại, những mảng màu lạnh xám, tôn trọng cái đăng đối, bình ổn của nghệ thuật cổ điển, ông yêu mến sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên rộng rãi.

Ra trường năm 1931, Tô Ngọc Vân cộng tác với các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Thanh Nghị. Với bút danh Tô Tử, Ái Mỹ, ông đã vẽ và viết trên các báo đó đến năm 1945. Ông đi sâu tìm hiểu nghệ thuật và theo ông “Cái đẹp trong tranh không phải là cái đẹp ngoài đời” (Báo Ngày Nay số 5 ngày 10/3/1935).

Xuất phát từ quan niệm đó, ở giai đoạn sáng tác 1930 – 1945 ông mang nặng khuynh hướng lãng mạn. Khuynh hướng này phù hợp với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam những năm 30. Đó là những năm cuối cùng trong cuộc vận động cách mạng của các sĩ phu yêu nước. Năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại chấm dứt phong trào cách mạng tư sản. Trên văn đàn công khai, nhóm Tự Lực Văn Đoàn ra đời với tuyên ngôn: “Lúc nào cũng mới trẻ, yêu đời, không có tính cách trưởng giả quý phái, tôn trọng tự do cá nhân, làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa” (Báo Phong Hóa năm 1934) . Vào những năm tháng này Tô Ngọc Vân đã hòa hợp với nhóm Tự Lực Văn Đoàn, ông tìm thấy ở đây cái hào hứng, yêu đời đồng điệu của tầng lớp trí thức mới. Một loạt các hình minh họa và phụ bản của ông ở các tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, như Hiền và Vọi trong tác phẩ’m “Trống mái” của Khái Hưng, phụ bản thiếu nữ trong các báo Ngày Nay, Thanh Nghị số Tết ra đời trong giai đoạn này cùng với nhiều ký họa về đề tài thiếu nữ Hà Thành hoa lệ, đã nói lên quan niệm nghệ thuật của ông.

Năm 1946, khi chia tay tháp ngà nghệ thuật với bảng màu giàu sang cùng những nét bút vuốt ve thân hình thiếu nữ, ông có những trăn trở băn khoăn. Nhưng rồi làn sóng cách mạng đã ào ạt lôi cuốn những ai còn ngơ ngác giữa ngã ba đường. Nhập vào dòng người lên chiến khu, ra mặt trận, vào đồng ruộng, công binh xưởng, họa sĩ Tô Ngọc Vân với ba lô, cặp vẽ – hành trang của một họa sĩ kháng chiến theo chân bộ đội, “tài sản” của ông nhiều dần. Tập ký họa về nông thôn Việt Nam, về Tây Bắc, về những nẻo đường kháng chiến là tập ký họa vô cùng quý giá của ông để lại, đánh dấu bước trưởng thành trong nghệ thuật mới, kết quả của những đêm dài tranh luận bên bếp lửa trú quân, trong hội nghị văn hóa văn nghệ và sống giữa tình thương yêu bạn bè. Vẻ đẹp mới trong tác phẩ’m của ông bắt đầu từ đây.

Từ Sơn Tây qua xóm làng trung du đến chiến khu Việt Bắc, ông đã làm nhiều việc khác nhau. Từ việc trang trí cho một ban kịch lưu động, vẽ tranh cổ động trên những mảng tường còn lại trong những khu đô thị bị tàn phá, phụ trách xưởng họa đầu tiên của chiến khu, vẽ tranh, in tranh tuyên truyền kháng chiến, đến việc phụ trách trường Mỹ thuật, tiếp tục công việc đào tạo thế hệ trẻ cho đất nước sau này. Ông luôn luôn mang hoài bão xây dựng một nền hội họa hiện đại Việt Nam vừa có tính chất dân tộc vừa có thể đứng ngang với nghệ thuật thế giới, hài hòa tinh thần duy mỹ.

Những tác phẩm của ông trong thời gian này đánh dấu bước chuyển biến trong quan niệm nghệ thuật của ông. Ký họa về du kích, bộ đội trên nẻo đường hành quân vội vã, các bà mẹ trung du, chị phụ nữ, anh thanh niên. Dưới nét bút tài hoa của ông, vẻ đẹp hồn nhiên trong cuộc sống trở thành những tác phẩ’m có giá trị ghi lại một chặng đường lịch sử của dân tộc. Yêu nước, muốn đóng góp một phần khả năng của mình

Tô Ngọc Vân thời cận đại

Họa sĩ Tô Ngọc Vân tham gia bày tranh rất sớm ngay từ khi ông đang học ở trường. Chiều ngày 17/12/1930 tại Sài Gòn đã khai mạc phòng tranh của các họa sĩ trường Mỹ thuật. Đó là triển lãm mỹ thuật đầu tiên ở đây, đánh dấu kết quả của khóa học, nên được nhiều người chú ý. Bên cạnh những tác phẩ’m của Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Vũ Cao Đàm, Lê Văn Đệ, tranh của Tô Ngọc Vân được hâm mộ về phong cách diễn tả.

Báo chí ca ngợi hai tranh sơn dầu “Ánh mặt trời” và “Bụi chuối ngoài nắng”: “Bức ‘Ánh mặt trời’ của ông Vân có thể gọi là một bài ca tụng cái tài biến hóa của ánh mặt trời. Ta xem lại vào cuộc sống đang rầm rộ chuyển mình, ông quyết tâm bám chắc cuộc sống đó, đi nhiều, ký họa thật nhiều về những đổi thay. Ông xông xáo, lăn lội trên các nẻo đường kháng chiến như một chiến sĩ và ông đã hy sinh ngày 17/6/1954 ở đèo Lũng Lô, trên đường ra chiến dịch Điện Biên Phủ.

TÔ NGỌC VÂN – Cô gái với con mèo – Bìa báo Indochine 1944.

Ông mất rồi nhưng trong ký ức bạn bè vẫn hiển hiện một họa sĩ rất mực tài hoa, mê đắm nghệ thuật ngay từ khi bước chân vào trường mỹ thuật. Với một tư duy mỹ cảm, điều khiển mảng màu nét bút khi đằm thắm, tinh tế trong từng chi tiết, khi diệu vợi thoát thực bâng khuâng.

tranh ‘Bụi chuối ngoài nắng’ cũng của ông Vân, lá chuối xanh, ánh nắng phản chiếu vào đã hóa ra hồng hồng pha trộn với sắc lửa. Một cảnh chói lọi mà vẫn dịu dàng nhìn không chán mắt” Tại triển lãm này ông còn bày bức “Trời dịu” vẽ một cách tự nhiên, bạo dạn “mà trên các bức tranh hình như ta nhìn thấy có luồng không khí trong sạch, mát mẻ bao bọc cả xung quanh”

Sau khi tốt nghiệp năm 1931, ông có dịp đi nhiều danh lam thắng cảnh. Vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam, một đất nước chan hòa ánh nắng nhiệt đới đã thôi thúc ông sáng tác. Cố đô Huế đã quyến rũ ông cùng tình cảm mãnh liệt của ông trước cảnh vật. Tại đây, trong không gian trầm lắng, cảnh vật êm đềm, thiên nhiên là nguồn cảm xúc vô tận cho người họa sĩ Ấn tượng.

Tại triển lãm của Hội chấn hưng Mỹ thuật – kỹ nghệ (SADEAI) tại Hà Nội năm 1935, Tô Ngọc Vân đã giới thiệu tác phẩm từ cố đô Huế. “Bao nhiêu là ánh sáng linh động trong tranh phong cảnh của Tô Ngọc Vân. Bức tranh ‘Lăng Tự Đức’ của ông Vân thật là khéo léo, cái lặng lẽ của một ngôi mộ, những bức tường cổ rêu bao phủ, những bóng cây râm mát, tất cả cái đó đều tỏ ra một cách vừa rõ rệt vừa kín đáo làm người ta nghĩ đến một cảnh Huế êm đềm” (Báo Ngày Nay, 20/7/1935).

Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam hiện nay còn lưu trữ hai tác phẩ’m đã tham dự triển lãm này, đó là tranh sơn dầu “Thuyền sông Hương” (1935) và “Bức thư’ (1931). Có thể nhận định “Bức thư’ là tranh lụa đầu tiên của ông. Một loạt tranh lụa ra đời vào quãng thời gian 1930 – 1945 như“Tiễn đưa” “Chợ hoa ngày Tết”, “Bên hòn Trống Mái”.. đã chứng minh rằng ở tranh lụa, Tô Ngọc Vân cũng mạnh dạn dùng màu sắc tươi sáng rực rỡ như tranh sơn dầu. Tác phẩ’m “Bức thư’ được đánh giá tại triển lãm năm 1935 rằng: “Đó là một cảnh yên lặng trong nhà êm đềm và mát mẻ lắm, cái nền hoa mai nở làm cho bức tranh thêm xuân, xuân vì cái trắng nõn của hoa điểm trong các màu mờ nhạt của bức tranh”

Họa sĩ Trần Văn Cẩ’n nêu nhận xét: “Người ta dễ dàng nhận ra âm hưởng của Gauguin trong tác phẩ’m tốt nghiệp ‘Lễ vật’ (offrande) của ông cũng như phảng phất ảnh hưởng của bích họa Acgiangta trên bức lụa Quà cưới (cadeau de noce) 1932, hội họa Nhật Bản trong ‘Hai đứa trẻ mục đồng’. Tính cách của họa sĩ duy mỹ bắt đầu từ đây”.

Ở triển lãm 1936 tại Hà Nội, tài năng của Tô Ngọc Vân một lần nữa được khẳng định. “Người ta thấy những tác phẩ’m của Lê Phổ và Tô Ngọc Vân, hai họa sĩ mà cái tài được mọi người công nhận. Người ta lại thấy cái nghệ thuật vừa chắc chắn vừa văn nhã của người trước và cái nghệ thuật có bản sắc sâu xa của người sau”. Tại triển lãm này ông bày mấy tranh vẽ tại Campu-chia với “những khoảng trời trong một màu lam thăm thẳm, những đường nét rõ rệt và chấm vàng của các áo nhà sư rực rỡ nổi bật lên”. Bên cạnh những tranh sơn dầu vẽ cảnh vật Cam-pu-chia chan hòa ánh sáng vàng rực rỡ của chùa tháp, sư sãi, ông bày những bức lụa đỏ rực màu hoa đào xen lẫn màu áo nâu của những em bé bán hoa trong tranh ‘Chợ hoa ngày Tết’, cảnh biếc xanh của những rặng tre trong tranh ‘Tiễn đưa” (Báo Ngày Nay 13/12/1936, tác giả Thạch Lam).

Trong bài báo “Những hy vọng về hội họa tại phòng triển lãm năm nay” (1937), họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung nhận xét: “Bên cạnh các họa sĩ mới, ta lại được gặp những người cũ hoặc đổi nhiều, hoặc đổi ít. Nhưng người nào cũng đưa lại cho ta một mối hy vọng về tương lai và phá tan những lời dèm pha của những kẻ lên tiếng rằng: Những tác phẩ’m thuộc về cảm hứng đối với ta không thể có được. Tô Ngọc Vân lại cho ta ngắm nghệ thuật lưu loát và chắc chắn của một thông minh già dặn”. 34 TẠP CHÍ MỸ THUẬT – THANG 5&6/2024

Triển lãm năm 1937 có thể coi là triển lãm phong cảnh lần cuối của ông. Từ 1939 trở đi ông đi sâu nghiên cứu thể hiện trên tranh hình thể người thiếu nữ thành thị với nhiều dáng vẻ theo quan niệm và nhãn thức “đẹp” của ông. Tại triển lãm của các nghệ sĩ Đông Dương tổ chức tại Hà Nội năm 1941, ông tham gia mấy tranh lụa đề tài thiếu nữ. Tác phẩ’m của ông được ngợi khen: “Công chúng đặc biệt hấp dẫn bởi những bức lụa của Tô Ngọc Vân với sắc thái ấm áp và vui vẻ. Nhà nghệ sĩ dường như đã tiến triển bởi một ý đồ giải phóng cá nhân. Nhưng người ta hỏi phải chăng ông đã không tìm thấy những motip nào khác ngoài đề tài thiếu nữ?”.

Năm 1944 ông tham gia bày tranh với nhóm FARTA. Đây là cuộc bày tranh lần cuối của ông trước khi cùng họa sĩ Nam Sơn, Inguimberty đi Đường Lâm, Sơn Tây tiếp tục công việc giảng dạy các khóa cuối của Trường Mỹ thuật Đông Dương. Tại triển lãm này ông bày mấy bức tranh sơn dầu mới sáng tác: “Thiếu nữ bên hoa huệ” (1943), “Thiếu nữ bên hoa sen” (1944), “Hai thiếu nữ và em bé” (1944). Vừa qua vào ngày 11/5/2024, dịp kỷ niệm 70 năm ngày ông hy sinh, cũng là thời điểm tác phẩ’m bảo vật quốc gia “Hai thiếu nữ và em bé” do ông sáng tác tròn 80 tuổi, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã phối hợp với Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức chương trình Art talk số đặc biệt “Những kỷ niệm về họa sĩ – liệt sĩ Tô Ngọc Vân (1906 – 1954)”

Sự có mặt những tác phẩ’m của ông tại các kỳ triển lãm đã chứng minh cách sử dụng màu sắc của ông trong mô tả phong cảnh thiên nhiên. Ông từ giã xưởng họa, tiếp xúc với con người giữa thiên nhiên rộng lớn nơi màu sắc luôn biến đổi dưới ánh sáng mặt trời. Ông đã dành cho ánh sáng một vị trí xứng đáng trong tác phẩ’m. Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung nhận xét: “Nàng mỹ thuật của Tô Ngọc Vân thông minh bóp trán nhìn ánh sáng mặt trời”

Tô Ngọc Vân quan niệm về Nghệ thuật

Ông đã tiếp thu một cách sáng tạo trường phái Ấn tượng, trước hết là thành tựu của tranh phong cảnh, chống các đường viền kinh điển, già cỗi. Điều đó rất phù hợp với tâm trạng sáng tác của ông những năm 30.

Vào những năm đầu của thế kỷ 20, làn gió “Văn minh phương Tây” ào ạt thổi qua đất Việt gieo rắc biết bao tư tưởng ăn chơi xa xỉ và lối sinh hoạt mới lạ. Rồi một trào lưu nghệ thuật mới xuất hiện mạnh mẽ và cuồng nhiệt làm lật nhào những quan niệm khuôn vàng thước ngọc cổ truyền. Người theo phái mới bắt đầu muốn cải cách xã hội theo một lý tưởng khác. Khuynh hướng xã hội của họ cho rằng quan niệm cũ về cái đẹp ngăn cản sự tiến hóa của con người. Họ muốn phá bỏ những cái cũ và giãi bày nhưng quan niệm mới đối với các vấn đề thuộc về con người và xã hội.

Tô Ngọc Vân thuộc lớp người mới, ông đã gửi gắm quan niệm nghệ thuật của mình vào tác phẩm. Các tác phẩm của ông đã chịu ảnh hưởng phương Tây rõ rệt, nhất là tranh sơn dầu. Có thể nói ông là người dẫn đầu trong việc sử dụng thành thạo sơn dầu, cũng như Nguyễn Phan Chánh thành công với

vẽ lụa. Ông mong muốn hiệu quả của chất liệu sơn dầu giúp ông vượt qua những lúng túng ban đầu khi chưa nhận thức thấu đáo về nghệ thuật, về màu sắc. Không phải ngẫu nhiên ông thành công với sơn dầu. Trong nhiều bài phê bình các tác phẩm của Tô Ngọc Vân sáng tác ở thời kỳ đầu đều thống nhất một nhận định: “Ông là người đã khám phá ra khả năng thể hiện của sơn dầu trong phương pháp sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn đang thịnh hành ở những năm đầu thế kỷ”.

Tô Ngọc Vân không phải là họa sĩ Việt Nam đầu tiên vẽ sơn dầu. Trước ông đã có người Việt Nam vẽ sơn dầu theo phong cách cổ điển là Lê Huy Miến và Thang Trần Phềnh. Với lối vẽ của ông Trần Phềnh, họa sĩ Tô Ngọc Vân nhận xét: “Nếu trường Mỹ thuật không có, bao nhiêu lòng nhiệt thành ham yêu mỹ thuật đã phung phí trong một nền nghệ thuật bất chính rồi còn gì. Ông trời ở nghệ thuật ấy là ông Trần Phềnh, họa sĩ mà trước kia chúng tôi rất phục tài và coi như cái đích tuyệt vời khó tới. Nghệ thuật của ông cốt ở sự khéo tay, quen tay, cái tài là bịa những màu xanh đỏ bôi lên hình thể đã chép theo đúng những bức ảnh không cần đến sự rung cảm của nghệ sĩ. Kỳ thi thứ nhất vào trường nghệ thuật ông Phềnh đến dự. Kết quả kỳ thi làm mọi người kinh ngạc. Ông Phềnh bị đánh hỏng và hết thiêng với cả nghệ thuật của ông. Vui vẻ, mê yêu, tin tưởng, chúng tôi vào cửa trường Mỹ thuật để tới thâm cung của “Đẹp” và chả bao lâu đã thấy quyến rũ làm sao”. Lời nhận xét trên cho ta thấy Tô Ngọc Vân chấp nhận nghệ thuật là một phương tiện diễn đạt cảm giác mạnh mẽ chứ không phải là sự nghiên cứu để hoàn mỹ những hình thức lý tưởng cái đẹp. Theo ông, hội họa phải tìm thấy tầm thước con người trong thiên nhiên, con người có cảm tính, cảm xúc. Ông viết: “Tôi nghĩ rằng một bức tranh đẹp là đã tả được những điều cảm thấy, nên tôi tin rằng chỉ những người giàu tình cảm mới có thể thành họa sĩ tài hoa” (Tô Từ, Báo Ngày Nay 10/3/1935).

Toàn bộ tác phẩ’m của ông trong giai đoạn 1930 – 1945 đã chứng minh quan điểm sáng tác là diễn tả tình cảm riêng của mình. Ông say mê cái đẹp, một cái đẹp thuần túy. Lý tưởng thẩ’m mỹ đó đã đưa ông đến một phương pháp sáng tác hoàn toàn đối lập giữa nghệ thuật với cuộc sống. Ở tranh của ông cảm xúc bao giờ cũng mạnh mẽ, màu sắc tươi vui chói lọi như một bản giao hưởng màu sắc. Tính chất lãng mạn trong nội dung từng tác phẩ’m được thể hiện bằng màu sắc huy hoàng, bay bướm, nồng nàn. Tính chất lãng mạn trong tác phẩ’m của Tô Ngọc Vân là điều tất nhiên bởi ông chịu ảnh hưởng từ trào lưu văn hóa văn nghệ những năm 30 – 40. Hơn nữa, ông là người lính xuất sắc tấn công vào thành trì phong kiến già nua trì trệ khi tuổi trẻ của ông bắt nhịp đồng điệu với những trào lưu nghệ thuật mạnh mẽ và cuồng nhiệt từ phương Tây tràn đến đất nước Việt Nam giai đoạn bắt đầu phân hóa.

Về kỹ thuật, ông là người thể nghiệm thành công việc sử dụng sơn dầu, một chất liệu không phải của phương Đông. Nhiều họa sĩ đương thời băn khoăn khi dùng sơn dầu mà lại muốn tác phẩ’m của mình phải có tính cách Á Đông. Tô Ngọc Vân đã gỡ được nỗi băn khoăn đó trong sáng tác của mình. Ông suy nghĩ rồi giải quyết việc sử dụng sơn dầu một cách hợp lý, duyên dáng và tràn đầy xúc cảm tự tin. Năm 1941, nhân dịp xem tranh triển lãm của các họa sĩ Nhật Bản trưng bày tại Hà Nội, ông đã viết bài phê bình cho thấy rõ thái độ của ông đối với sơn dầu và hội họa phương Tây. Ông viết: “Phần nhiều mang lại cho ta hương vị hội họa Paris mà người viết bài này đã bị cái sức mạnh vô hình quyến rũ. Ở đây ta thoáng thấy tiếng vang của Matisse, Bonnard, Utrillo… Những họa sĩ khổng lồ của Paris mỹ thuật, của lòng yêu, kính nể của chúng ta”. Sau khi miêu tả một số tác phẩm trưng bày đã làm cho ông vô cùng xúc động trước màu sắc quyến rũ của từng tác phẩ’m, ông viết tiếp: “Nói cho gọn chúng ta thấy toàn thể các tác phẩ’m phân làm hai phái hội họa sơn dầu cũ và mới. Những nghệ sĩ kể trên đều thuộc khuynh hướng mới, chú trọng tinh thần sáng tạo hơn là biên chép tả chân đúng nhân vật. Khuynh hướng này đã khiến họa sĩ Á Đông phần lớn thiên về môn phái sơn dầu hiện đại. Nghệ thuật của môn này đã giúp họ diễn tả được những sự rạo rực, xao xuyến trong tâm hồn nghệ sĩ đứng trước cảnh vật thiên nhiên”. Và ông hiểu về tính cách Á Đông trong nghệ thuật sơn dầu: “Nói đến nghệ thuật sơn dầu ở Nhật cũng như ở nơi khác trong Á Đông thiết tưởng không nên kể đến tính cách Á Đông mà đánh giá. Người ta thấy hình như nghệ thuật sơn dầu không cho kế gì để tạo nên những tác phẩ’m cốt cách Á Đông nữa. Nhiều nghệ sĩ đã thất bại trong sự tìm tòi đó, người ta chỉ đến được những tác phẩ’m yếu ớt hay thành thực, mang cái vỏ Á Đông mà không có tinh thần của nó. Bởi vậy nghệ sĩ Á Đông như đồng lòng khi dùng sơn dầu sản phẩ’m Âu – Mỹ thì dùng như người Âu Tây mặc cho các nhà bảo tàng cầu nhầu than vãn. Một nghệ sĩ Á Đông thành thực với mình dùng sơn dầu hay sơn gì của một dân tộc nào khác nữa cũng chỉ có thể sản xuất ra được tác phẩm có tính cách Á Đông. Á Đông đây là Á Đông Âu hóa của thế kỷ 20 cố nhiên không phải là cái Á Đông đời Hán hay đời Đường” (Tô Ngọc Vân, báo Trung Bắc Chủ nhật số 90 ngày 7/12/1941).

Năm 1938, triển lãm mỹ thuật Hà Nội có sự đóng góp những tranh sơn mài của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, kết quả sau 6 – 7 năm tìm tòi. Chất liệu nghệ thuật này cũng thật khó thành công ở chỗ phân biệt được đâu là mỹ nghệ, đâu là hội họa. Tiếp thu truyền thống sơn mài cổ điển Việt Nam sử dụng vàng son để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật, thành công đó đã nhường cho họa sĩ Nguyễn Gia Trí. Xem tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân cảm động thực sự. Ông khẳng định: “Đến cuộc thí nghiệm Nguyễn Gia Trí, lối sơn ta không còn là một mỹ nghệ nữa. Ở óc, ở tâm hồn người ấy, nó đã được nâng lên mỹ thuật thượng đẳng. Nghệ thuật của Gia Trí là ý tưởng, tình cảm của Gia Trí đúc lại, một nét, một vết một màu đều phải ở tay nghệ sĩ mà ra. Đứng trước những tác phẩ’m ấy người ta cảm thấy tất cả cái băn khoăn yêu muốn khoái lạc – thứ nhất là khoái lạc-của Gia Trí” (Tô Ngọc Vân, Báo Ngày Nay số 146 Ngày 21/1/1939).

Và cũng như sơn dầu, ông quan niệm tranh sơn mài cũng phải nói lên được niềm cảm xúc mạnh mẽ, trí tưởng tượng mạnh mẽ bằng một kỹ thuật hết sức độc đáo, nhẹ nhõm, ước lệ để nói lên được cái tính mãnh liệt với đời. Ông đã tìm thấy trên tranh Gia Trí những nét đó: “Trên những màu hồng nhợt biế’n hóa, những sắc nâu ngon thiệt là ngon, những vỏ trứng như đổi cả thể chất thành quý vật, vài nét bạc, vài nét vàng sáng rọi, rung lên, rít lên như tiếng sung sướng của xác thịt khi vào cực lạc. Chàng nghệ sĩ ấy yêu tấm sơn như ta có thể yêu một người đàn bà lúc âu yếm bằng những nét vuốt ve, mềm mại, lúc dữ dội bằng dăm nét quẹt mạnh, đập tung, cào cấu. Vạn vật đối với nghệ sĩ chỉ đáng yêu có sắc và hình”.

Với ông, màu sắc là linh hồn của tác phẩm dù chất liệu gì và nghệ sĩ là người điều khiển màu sắc để tìm thấy cái đẹp ẩ’n náu bên trong, nói lên được cái tinh vi tế nhị của sự sống và sức vận động. Bởi vậy, những tác phẩ’m của ông ngoài giá trị về cách hòa hợp màu sắc đều nói lên được tâm hồn tình cảm của ông trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Những tác phẩ’m sơn mài làm dở dang của ông năm 1948 – 1950 như “Chạy giặc trong rừng” “Nghỉ chân bên đường” “Phố trụi” hiện lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và tác phẩ’m “Khi giặc đã qua” (sưu tập gia đình) đã ghi lại thành công bước đầu của ông trong chất liệu này.

Đối lập với sơn dầu, sơn mài là một chất liệu quý, cổ truyền bao năm trời bị lãng quên dưới bàn tay của nghệ sĩ trong đó có Tô Ngọc Vân đã trỗi dậy để tạo nên những tác phẩm đầy ắp cảm giác bồn chồn, rạo rực và dung hòa với hương sắc Việt Nam.

Cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Tô Ngọc Vân quá ngắn ngủi! Ông hy sinh khi tài năng đang nảy nở. Ông đã sống hết sức mình, nhất là giai đoạn sau này khi tâm hồn ông đang hòa lẫn tâm hồn dân tộc. Cách mạng chuyển mình, Tô Ngọc Vân chuyển biến tư tưởng, nhìn thấy con đường đi đúng đắn nhất cho một họa sĩ. Trên tiền đồ vẻ vang của mỹ thuật Việt Nam, họa sĩ Tô Ngọc Vân là người đặt nền móng đầu tiên và đóng góp rất nhiều công phu xây đắp. Tô Ngọc Vân là hình ảnh tươi đẹp, trong sáng của một nghệ sĩ tự tìm cho mình con đường đi đến nghệ thuật chân chính mà ông đã được vinh dự góp phần nhỏ. Bạn bè ông, học trò ông đi tiếp trên con đường ông đã đi, rút ra những bài học quý giá để định hình cho nền mỹ thuật Việt Nam mà họa sĩ Tô Ngọc Vân đã hiến trọn cả cuộc đời.

Tô Ngọc Vân trong con mắt bạn bè

Họa sĩ Tô Ngọc Vân ra đi ở tuổi 49 khi tài năng đang ở độ chín muồi nhất. Nếu ông sống lâu hơn thì thế hệ chúng tôi vẫn có cơ hội được tiếp xúc, đàm đạo nghệ thuật như với các nghệ sĩ cao niên Nguyễn Phan Chánh, Trần Văn Cẩ’n, Lương Xuân Nhị. Khi được hầu chuyện các họa sĩ cao niên, tôi nhận thấy bao giờ hình ảnh ông cũng trở về trong ký ức của họ, để từ đó chúng tôi hiểu ông hơn, con người “thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.

Trong mắt bạn bè thì họa sĩ Trần Văn Cẩ’n là người gần gũi ông nhất suốt những năm ở Việt Bắc, khi Tô Ngọc Vân làm hiệu trưởng trường Mỹ thuật với khóa kháng chiến gồm 20 học sinh mà ngày nay một số trong họ đã thành danh như Đào Đức, Trần Lưu Hậu, Ngô Mạnh Lân, Lưu Công Nhân, Trọng Kiệm, Ngọc Linh.

Trong một lần trò chuyện, họa sĩ Trần Văn Cẩ’n chậm rãi kể: “Nhớ lại anh Vân dạo đó con người vóc dáng nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, giàu nghị lực. Đầu anh to, vầng trán nhô cao dưới chiếc mũ tai bèo, cặp mắt to cứ sáng rực khi chăm chú quan sát. Bàn tay anh nhỏ, những ngón tay khum khum, run run đưa nét chì trên giấy vẽ. Một thỏi chì than đã mòn chỉ còn hơn một đốt ngón tay cắm vào mẩ’u ống sậy. Một mảnh tẩ’y chì vẹt mòn còn vừa bằng cái vỏ hến, góc dùi lỗ luồn một sợi dây gai lúc nào anh cũng tòn ten ở cúc áo sơ mi trước ngực. Những “báu vật” ấy anh Vân chi chút lắm. Hoàn cảnh chiến tranh, một cây bút chì than quả quý như vàng. Cứ khi nghỉ anh Vân lại rút mẩu chì ra ngắm nghía, xuýt xoa xem nó mòn thêm bao nhiêu và còn làm bạn với mình được bao lâu nữa. Về môn bếp núc, anh Vân cũng là tay khá thành thạo nên được bà con cho chất gì tươi, anh em dành ưu tiên cho anh cái việc chế biến.

Tìm được nơi thuận tiện, kín đáo, cỏ cây chen đá sơn thủy hữu tình thì cái việc bếp núc của cuộc đi vẽ thật là sang. Và lúc ấy thế nào anh em cũng lại được nghe giọng run run khe khẽ, anh ngâm một câu thơ và sau cùng là “Đây lắng hồn núi sông ngàn năm” trong bài hát Người Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Những lần như vậy là dịp để chúng tôi nhớ lại bao kỷ niệm về Hà Nội thân yêu, về bạn bè, về tình đời, tuổi hoa niên”

Về tranh sơn dầu của Tô Ngọc Vân, họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ từng nhận xét: “Đi xa hơn cả vẫn là Tô Ngọc Vân. Ông đạt tới trình độ sơn dầu mà ít nghệ sĩ Việt Nam nào sánh kịp và đã đi trước cả cái thẩ’m mỹ quan của công chúng. Nhưng không sao, nghệ sĩ đã rung động cả nét bút của các bạn chung quanh với một điều khoan thai óng ả của mình. Một nghệ thuật khác là như thế, khiến công chúng biết một vẻ đẹp không phải chỉ lấy có tự nhiên làm cứu cánh. Phải thêm cái thật của mắt mình nhận xét, một khối óc hay một chút ánh sáng của tài năng” (Nguyễn Văn Tỵ, tạp chí Tri Tân 8/4/1943).

Họa sĩ Lương Xuân Nhị kể lại: “Ở trường Mỹ thuật Đông Dương khi đó, buổi sáng vẽ người mẫu, buổi chiều vẽ trang trí, anh Vân thích vẽ những màu phẳng chứ không vờn. Trong khi ấy Victor Tardieu vờn ghê lắm, anh quay sang Inguimberty một thầy Pháp có đầu óc khoa học duy lý. Từng đường cong, đường thẳng trên tranh anh đều mạch lạc, bay bướm, không gian biến hóa, nhịp điệu khối hình mặt phẳng đan xen hài hòa những đỏ thẳm, vàng cam, xanh lục. Càng ngày anh càng phát triển theo một cách riêng, không giống ai. Màu sắc và hình khối, đề tài tạo một Tô Ngọc Vân khác biệt như chúng ta đã biết”.

TÔ NGỌC VÂN – Hai thiếu nữ và em bé – 1944. Sơn dầu. 102×71,8cm – Bảo vật Quốc Gia – Sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Trên báo Thanh Nghị số 887 ngày 12/10/1944 có đăng mấy ý kiến về tranh Tô Ngọc Vân: “Những bức sơn dầu sáng lạnh của họa sĩ Tô Ngọc Vân, nhà họa sĩ vĩnh viễn yêu đời. Màu sắc ở đây ngoa ngoắt như má hồng răng đen và mắt bồ câu của mấy cô gái quê sắc sảo. Dưới mắt ông ngỡ rằng một cảnh buồn cũng có những nét tươi vui. Chẳng thế mà cảnh đời u ám của ông vẫn còn quyến rũ ta như những ngày trong sáng”.

Một học trò yêu của Tô Ngọc Vân ở khóa kháng chiến là Lưu Công Nhân (1931 – 2007) đã ảnh hưởng mạnh mẽ từ người thầy duy sắc. Lưu Công Nhân kể về những kỉ niệm dưới mái trường mỹ thuật trong kháng chiến, thầy trò cùng hăm hở vẽ, yêu đời, sáng tạo và nghịch ngợm. Ông nói: “Tháng 9 năm 1950, họa sĩ Tô Ngọc Vân có được quyết định thành lập trường Mỹ thuật tại Việt Bắc. Trong những ngày đầu ấy toàn Ban Mỹ thuật Hội Văn nghệ Việt Nam hối hả chuẩn bị mở lại trường mỹ thuật. Họa sĩ Trần Văn Cẩn vẽ và khắc huy hiệu, con dấu nhà trường, một con dấu cơ quan độc đáo. Nó không mang hình tròn hay hình vuông mà nó có hình một cái nhà, nóc là hai chữ cái MT và phần dưới là cái nghiên màu.

Họa sĩ Tô Ngọc Vân bận rộn mời các giáo sư về dạy và cũng cho gọi các sinh viên cũ học dở dang khóa cuối trường Mỹ thuật Đông Dương trở về học tiếp: Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Phan Kế An, Tạ Thúc Bình, Phan Thông. Lớp học trong cảnh rừng hoang vắng vẫn vẽ khỏa thân trong bài academic, bài trang trí bố cục để tuyển sinh. Đây là một trường Mỹ thuật độc đáo nhất thế giới. Thầy và trò đi giữa rừng cây nguyên sơ, cả Việt Bắc với những đồng bào Dao, Thái, Mường tràn đầy màu sắc hoang dại – một giấc mơ của Gauguin. Thầy trò cùng đùa vui dạy một con vẹt học nói, hễ có khách nó lại nheo nhéo: “Phôvit, Môdec, Xêdan, Picatxo”.

Những khi chuyển trường, tìm được địa điểm mới đầy lá vàng rơi và những đụm khói lam chiều với những cô gái Dao, Thái, Mường váy xanh lơ đi lại giữa những giá vẽ của chúng tôi, thầy Vân lại thốt lên: “Đẹp như Máctiních, Máckit (tên những hòn đảo ở Thái Bình Dương nơi Gauguin đặt chân đến cuối đời) – tuyệt vời”. Có một chỗ rộng rãi để thầy chấm bài, giảng bài, chúng tôi treo một bảng tên thật to “Quảng trường Modec. Chúng tôi là lãng mạn nhất thế giới”. Họa sĩ Lưu Công Nhân lim dim đôi mắt như đắm chìm trong ký ức xa xưa mà gần gũi thuở nào.

Dẫn nguồn: Nguyễn Hải Yến/ Tạp chí Mỹ thuật

. . . . .
Loading the player...