Tạp chí Hồng Lĩnh số 226 tháng 6/2026 trân trọng giới thiệu bài viết “Nhà thơ Dương Kỳ Anh” của Nhà lý luận phê bình Hà Quảng
Nhà thơ Dương Kỳ Anh
Nhà thơ Dương Kỳ Anh tên thật là Dương Xuân Nam, bút danh của ông ghi dấu mảnh đất nghèo miền Trung, nơi có con đèo nổi tiếng chạy ngang, là một vùng đất nổi tiếng thời chiến tranh, vùng đất lửa nơi mà “từng chuyến xe đi từng dặm lửa, bom đạn trong chiều bay đuổi theo”, nơi có những “trận địa bên cầu có 10 tay súng, người trẻ nhất tuổi cũng sáu mươi” (Thơ Quốc Anh). Sau những năm quân ngũ chàng sinh viên trưởng thành trở thành Uỷ viên Ban chấp hành Đoàn thanh niên Cộng sản, sau đó là Tổng Biên tập tờ tạp chí lớn Tiền Phong, cũng nhiều nắm giữ cương vị Chủ tịch các Cuộc thi hoa hậu quốc gia. Trên chặng đường hoạt động văn hóa anh đã để lại những kỷ niệm, những ấn tượng khó quên trong lòng công chúng. Anh là một tác giả có nhiều đầu sách thuộc nhiều thể loại nhưng nổi bật và tâm đắc nhất là thơ.
Tôi biết anh từ khi còn là một chàng trai mảnh dẻ với những câu thơ tuổi học trò trong trẻo mà hứa hẹn. Những câu thơ gắn với một vùng quê có nhiều di tích và danh thắng với những cái tên quá mộc mạc mà bí ẩn: những Cầu Kênh, Cầu Rác, Đền Chèm… với những câu chuyện tưng tửng về hươu Bàn Đọ, người Chợ Voi nghe qua một lần mà nhớ mãi. Cuộc đời anh từ nhỏ đã thấm đượm nỗi buồn gia cảnh: ông nội là nghĩa quân, cha cán bộ kháng chiến nhưng sớm xiêu dạt, ly tán, mẹ già đau yếu thiếu nơi nương tựa, anh em đôi miền xa cách. Anh đến với văn chương từ nỗi buồn thân phận. Cõi đời trong thơ anh cũng đa đoan chồng chất buồn vui, sáng tối thật giả (Nguyễn Quang Thiều - Cõi người cõi thơ) là vậy.
Có những tập thơ đọc giữa chừng phải dừng lại vò đầu bứt tai mà suy nghĩ, có thơ dễ hiểu có thể đọc một lần hết cả tập với hàng trăm bài. Nói như vậy để thấy sự khác biệt về phong cách không làm xa cách, trái lại sự khác biệt vẫn có thể gặp gỡ ở một nơi, đó là tình người, là sự chiêm nghiệm say mê yêu mến cuộc đời dẫu họ nói bằng những cách điệu khác nhau. Thơ Dương Kỳ Anh thuộc loại thứ hai.
Đi vào thơ của Dương Kỳ Anh chúng ta thấy như là vào bữa tiệc đời với tất cả sự đa dạng, tất cả sự đối nghịch, tất cả những sự khác và giống nhau, nó có cả mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi, cả đen - trắng, cả xấu - tốt, cả thực - hư, một hiện thực phong phú rộng mở trước mắt người đọc… Các yếu tố sự, cảnh, tình mà Lê Quý Đôn lưu ý khi nói về thơ đều ẩn hiện trong tập sách. Tất cả đều có ở trong thơ anh và cái sợi chỉ đỏ xuyên suốt thấm đẫm tất cả chẳng phân biệt mọi sinh thể trong thế giới đó là tình yêu với cuộc đời, lòng trắc ẩn với con người, là “ý nghĩa của kiếp người” (NQT - bài đã dẫn)!
Anh đã mở rộng biên độ đề tài của thơ không chỉ ở bề rộng mà cả ở bề sâu, nhiều cung bậc đời sống có thể bắt gặp trong thơ anh, từ một nghi vấn trẻ thơ cho đến cảm hứng người già, từ niềm vui tình yêu trong giấc mơ đến suy tư về thực tại khó khăn của đời sống. Thời gian nghiền nát tất cả/ Đời người cát bụi hư không! Anh nói về vùng sơn cước: Cao Bằng mùa xuân, Phất một bông lau/ Lưng đèo/ Trắng xóa… Hoa đỏ/ Buộc vào lưng chừng trời, về những đường cong vành trăng non của tình yêu đôi lứa, nói về tình thương cháu nhỏ: Bài thơ tết năm ngoái/ Ông còn nợ cháu một câu hỏi/ Rốn của quả đất nằm ở đâu?, về miền quê cơ cực xa ngái và lòng không khỏi thầm trách: Tóc dù điểm bạc/ Lòng còn chân quê/ Xênh xang áo mũ/ Ai đi không về… Xa xôi hơn, tác giả nhắc đến cả Phổ Nghi và Hòa Thân: Thăm nơi vua ở/ thấy vua cũng xoàng/ Thăm nơi quan ở/ Biết là quan tham…/ Rồi ai thiên đường/ Rồi ai địa ngục/Bể dâu nào biết/Trời xanh bạc đầu… như là một gợi ý gián tiếp về hiện tình xã hội. Thơ anh cả cảm xúc và đề tài đều mở rộng đường biên để hòa nhập với nền thơ đương đại! Điều ghi nhận là một hồn thơ già chín về cảm xúc được biểu đạt trong một ngôn ngữ trẻ mới. Anh gia nhập một cách tự giác vào dòng thơ các tác giả truyền thống - hiện đại khá phổ biến như là cái dòng chính trong nền thơ hiện nay.
Lỗ Tấn nói từ tim chảy ra là máu từ cái vòi chảy ra là nước, điều giúp cho người đọc gọi được là Thơ, khi nó rung động chân thật và có cái nét riêng của sự xúc cảm của tác giả với cuộc đời! Tấm lòng tác giả nghiêng về phía cái đẹp, phía cái tốt để suy nghĩ. Từ cuộc tình của đôi bạn trẻ đến sắc hoa ở trong mơ, từ trang sách đọc dở đến một tiếng rao đêm hay nỗi nhớ nhà thơ cũ Nguyễn Vỹ, từ câu chuyện người ông với cháu nhỏ đến những điều ghi được ở Ngã ba Đồng Lộc... tất cả mọi cảnh, sự, tình nhà thơ đều gửi gắm tâm sự. Lời thơ nhẹ nhàng nói như chơi nhưng để lại trong tâm hồn người đọc là những day dứt sâu lắng, hoặc về sự bẽ bàng phân ly trong cuộc sống, hay niềm trắc ẩn sau những phận đời không bao giờ nguôi tắt ánh sáng niềm tin. Cái đẹp luôn vươn lên khỏi sương mù, mưa gió, đấy chính là cuộc đời như câu ngạn ngữ của người Pháp Cést la vie! - Đời là thế! Cuộc đời không thuần nhất, không đơn giản, nó phức tạp nhiều biến cố mâu thuẫn. Nhưng, cuộc đời là một lẽ tồn vong của lương tâm, của ánh sáng. Cái tâm điểm thẩm mỹ của thơ Dương Kỳ Anh làm nó khác các thi phẩm khác, có lẽ là ở cái nỗi buồn nhân thế của tác giả trước những mâu thuẫn của cuộc đời. Nhà thơ chân thật thốt lên: … Hình như cô đơn mới là sự sống/ hình như nỗi buồn mới là hy vọng/… Tập thơ trải nghiệm nhiều tâm sự của tác giả, thi tứ nào cũng gợi cảm, vì nó thốt lên tự đáy lòng. Kỷ niệm ngày xưa tình anh em máu mủ: Kỷ niệm tháng ba mưa dầm/ sấm ran đồng lúa/ anh em mình đi bắt cá ron/ thế mà giờ đây âm dương cách biệt:…giờ em nằm nơi đâu/ nghĩa trang Trường Sơn/ hay nơi Thành cổ/ gió lào thổi héo cây cỏ/ thổi rát mặt người/ bụi mù đất đỏ … (Thơ chọn).
Day dứt, vương vấn người đọc là những vần thơ xúc cảm thế sự. Tác giả thấy những nghịch lý cuộc sống đời người như ngọn gió qua/ bao triều vua cũng chỉ là hư không. Lòng như vương nợ: ở đâu gừng không cay/ nơi nào muối không mặn/ đời bao nhiêu cay đắng/ Ta ngọt lành được chăng?. Anh luận bàn thế sự, cảm nhận được cái khó khăn của thực tại nhưng cũng khẳng định sự hy sinh cần thiết, chịu đựng cần thiết của từng cá nhân cho Đất nước tiến lên:… Đất nước không thể lùi/ đời phải lùi một bước/ bữa cơm dù đạm bạc/ nơi ở còn đơn sơ/ đất nước không thể lùi/ ta phải lùi một bước/… lùi về phía hy sinh/ lùi vào trong mất mát/ lùi vào nơi thua thiệt /cùng với nhân dân mình/ đứng về phía sự thật. Một điểm sáng nhân văn trong tập thơ!
Ngoài thơ anh còn viết truyện, ký, viết phê bình: Xuyên Cẩm (Tiểu thuyết - 2004), Người rêu (Truyện ngắn - 2008), Bức ảnh thứ hai (Ký - 2001), Cõi Ta Bà (Tiểu thuyết (2007) Những điều chưa biết (Phê bình - 2008), Thơ hay kim cổ (Nghiên cứu - 2016)… Chủ đề thế sự đa đoan xuyên suốt các tác phẩm của anh. Lòng đau đáu về một miền quê giàu truyền thống nhưng cũng đầy thăng trầm. Những cảnh đời, những phận người bị chi phối bởi lịch sử, bởi chiến tranh, bởi thiên tai nhưng luôn vươn lên để làm chủ số phận, hướng về tương lai. Nơi đấy cũng có những kẻ sống dật dờ, những “người rêu” ngược dòng lịch sử phủ bóng tôi lên quê hương:“… Những đám rêu trong khu vườn vùn vụt cao lên. Ánh đèn điện sáng trưng bỗng nhiên vụt tắt. Tôi kinh hãi nhìn thấy những bóng đen như bóng người, chân tay nguyềnh ngoàng gầy guộc nhảy múa. Chính những bóng đen kỳ dị này phát ra âm thanh hua… hua…hua… Người rêu! Phải rồi, người rêu.” (Người rêu - tr10). Nhưng trên hết vẫn là tình yêu với quê hương, niềm tin ở tương lai. Thơ hay không ưa “sự làm dáng” hoa mỹ giả tạo. Bài thơ sau của Dương Kỳ Anh hàm súc biết bao mà cũng lay động lòng người biết bao vì tác giả biết chọn chi tiết chân thực gợi cảm về quê hương và diễn đạt bằng một ngôn ngữ thật giản dị và tinh tế:
Đêm hè con nghé cười trăng
Bờ đê ai hẹn ngày rằm chưa qua
Mân mê chi búp cỏ gà
Thẫn thờ khi buổi chiều tà quê hương
Mắt người cũng nhuốm màu sương
Má còn quạt thóc bên đường đợi con?
(Đêm hè)
Thơ của Dương Kỳ Anh nhiều hình ảnh rất mới, vì trong dòng chảy tiếp biến văn hóa tác giả đã hấp thụ được một số thủ pháp nghệ thuật hiện đại. Trong thơ anh điểm xuyết một số hình ảnh có tính chất cổ điển, chi tiết tả thực, tình tiết có tính báo chí, hoặc những tên người, tên vật rất cụ thể và bằng một ngôn ngữ khá mộc mạc tự nhiên như lời ăn tiếng nói hàng ngày, và bên cạnh đó, lồng vào những hình ảnh có tính tân kỳ, màu sắc tượng trưng siêu thực, những hồi ức về giấc mơ, ảo giác hoài niệm với ngôn ngữ giàu tính biểu tượng cho nên xem thơ mà tưởng như là đang tự đối thoại hay lạc vào một miền biên viễn nào vậy. Hãy nghe anh nói về hành trình gian khổ của kẻ tìm đường… đời như một cuộc trốn tìm/ tự mình bịt lấy mắt mình mà trông, một hành trình khốn khó đầy chất hiện sinh: … trời cao đất dày /một mình ta đi/ một mình ta đến/ một mình ta về/ một mình ta nghe/ một mình ta say… và cảm nhận một mùa xuân Tháng giêng mắt ướt tóc dài/ Cỏ non xanh rợn chân trời hư không đầy tính biểu tượng, hay… Hương quê bông gạo khô giòn? Đàn trâu gặm cỏ nhai mòn tháng năm (Đêm hè). Câu thơ xoáy vào lòng người một ký ức xa ngái, đẹp một cách giản dị mà sâu lắng, rất truyền thống nhưng cũng rất tân kỳ. Đàn trâu mơ màng gặm cỏ mà tưởng nhai mòn cả tháng năm. Siêu thực mà cũng rất hiện thực! Có nhiều bài nhan đề chỉ một chữ, nội dung vài ba câu, bên cạnh những bài như văn xuôi cũng tạo nên sự mới lạ.
Nhìn tổng quát thơ Dương Kỳ Anh vẫn nằm trong dòng chảy thơ truyền thống có yếu tố hiện đại chứ không hoàn toàn là thơ theo kiểu tân kì/ hậu hiện đại như một số tác giả trẻ khác và cũng không nằm trong cái dòng chảy của thơ văn mang âm hưởng dân gian như ta thường gặp. Thơ của anh không chỉ làm phong phú cái gia tài văn học đa dạng của riêng mình gồm nhiều tập văn, thơ, nghiên cứu, báo chí, mà còn góp phần làm phong phú thêm thơ Việt đương đại. Anh ra đi quá đột ngột, để lại sự tiếc thương to lớn trong lòng bè bạn và độc giả. ./.
H.Q