Sinh năm 1950 tại Hà Tĩnh, nhà thơ Bùi Quang Thanh là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đồng thời là một thương binh từng tham gia chiến đấu trực tiếp tại Mặt trận Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ những ngày còn ở chiến trường, ông đã bắt đầu sự nghiệp thơ ca và cho đến tận bây giờ, đề tài về lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng vẫn luôn là nguồn cảm hứng chủ đạo, chiếm trọn tâm huyết trong các sáng tác của ông.
Nhà thơ Bùi Quang Thanh
Lời Ru Đồng Đội
Ngủ đi giấc ngủ ngàn xưa
Lời ru nhè nhẹ. Rừng dừa gió xao
Trập trùng lũng thấp đồi cao
Qua truông có nhớ ngày nào vượt truông
Chẳng còn đạn dập bom dồn
Xin đừng mộng mị cho hồn thảnh thơi
Ngủ đi! Nào, ngủ - à ơi…
Ngọt ngào là tiếng ru hời mẹ xưa.
Rừng chiều nổi gió tiễn đưa
Nén hương mồ bạn còn chưa kịp về
Bao năm đá gối đất kề
Mưa đông xối cỏ, nắng hè khét xương
Giờ ai hoang lạnh sa trường
Mà ai giã bạn lên đường tìm quê?
Rừng sâu dây níu bốn bề
Nắng như đôi mắt đỏ kè rưng rưng..
Bao năm bóng xế trăng chùng
Bao năm đơn lẻ bạn cùng đất nâu
Rễ cây thay tóc trên đầu
Bạn đau mối đốt, mình rầu cỏ ăn
Hai thằng hai nửa tấm tăng
Vội vàng đồng đội đặt nằm cạnh nhau
Chiến trường chuyển hướng về đâu
Đêm dài dằng đặc rừng sâu hai mồ.
Khói hương hun hút đợi chờ
Lá rơi lấp lối sương mờ chốn mong
Nhặt thưa tiếng súng xa dần
Nín câm đợi tiếng bước chân bạn bè.
Ngủ đi! Nào ngủ - Đường về
Cây reo, suối hát, bốn bề lúa thơm
Ríu hồn cọng rạ dây rơm
Mo cau ngày ấy nắm cơm mẹ nghèo.
Liêu xiêu bóng đổ lưng đèo
Giật mình thảng tiếng bạn kêu cuối rừng.
TÌNH THƯ
Kính viếng liệt sĩ Võ Thị Tần
Chị ngã xuống rồi tình thư vẫn đi
Như mũi tên Nữ thần Tình yêu bay về vĩnh cửu
Xuyên qua những con đường máu lửa
Trên vai người giao bưu
Chị ngã xuống rồi, lời tin lời yêu
Chẳng thành trầu cau – thành hòn máu đỏ
Để tình thư gợi thương gợi nhớ
Lặn lội đi tìm địa chỉ người yêu
Chị xa lắm rồi – những lớp đất nâu
Cỏ và hoa đan đầy mộ chí
Nơi ngày xưa bom vùi Mười Chị
Hậu thế xòe tay những tượng đài
Nơi ngày xưa chị run nét bút
Thư thành địa chỉ của ngày mai.
Trong đoàn người dâng hương Đồng Lộc
Có ai nhận ra sắc đỏ máu mình?
Người cất vó bên sông Nhật Lệ
Lão ngồi ngoảnh mặt ra sông
Sông trong leo lẻo mà không bóng hình
Bao nhiêu mắt lưới rập rình
Gian manh lấy sóng phủ chìm đáy sâu
Thuyền người xuôi ngược nơi đâu
Lão ngồi như thể từ lâu hóa đồng
Với người sông chỉ là sông
Với Già, sông hóa cánh đồng, áo cơm
Nhẹ con tép, nặng mớ tôm
Vó bẻ một gọng mà hơn gia tài
Gọi về bao nắng ban mai
Xua đi tăm tối đêm dài ngư ông
Lão ngồi ngoảnh mặt ra sông
Sông trong leo lẻo như không có gì
Tóc tơ, thân hạc, da chì
Lão ngồi như chẳng còn gì để trông
Miệng ăn vớt tự đáy sông
Phải lừa tôm tép bằng rong bằng rều..
Lão ngồi má tóp mắt nheo
Nước sông Nhật Lệ chảy theo dòng đời.
Hoa mua tím (Ảnh: Khánh Phúc)
Trước màu mua tím
(Kính tặng 13 liệt sĩ Bộ đội Thông tin A69)
Anh về cùng gió núi
Muốn ôm ghì tiếng đoá hoa mua
Những cánh tím mịn màng môi thiếu nữ
Nghênh nghênh đôi sừng tuổi thơ
Mười sáu xuân em không kịp ước mơ
Đi không kịp chào
Chết không kịp khóc
Gái trai bên nhau như khúc gỗ rừng nén chôn cảm xúc
Ăn tựa miệng hầm
Ngủ giữa thảm bom
Tuổi mười sáu mà vầng trăng chưa tròn
Đã vởn bóng ma "cụp xòe" ... ẩn hiện
Vầng trăng nhô lên từ biển
Vầng trăng vụt tắt sau rừng
Gió Lèn Hà trăm năm sau vẫn nấc
Cánh mua rừng màu tím mãi rưng rưng.
Đốt nén nhang bên hoa vàng nến đỏ
Mười ba đồng đội của tôi ơi
Cúi lạy những linh hồn đã hóa thành hoa cỏ
Ngưỡng mộ những anh hùng tuổi mười sáu đôi mươi
Khói hương chẳng đủ nhiều làm mây trắng
Chiều biên cương mua thăm thẳm kết buồn
Mái hang cũ rêu phong không xanh nổi
Cúi sát đầu dòng lệ thạch trào tuôn
Nỗi ấm ức rộn lên từng vân đá
Dẫu trơ gan trước tuệ nguyệt muôn ngàn
Không che nổi những người con trung hiếu
Để bây giờ gió khóc trũm vòm hang.
Anh cầm chiếc ống nghe bốn mươi năm còn ấm
Áp vào tai, chợt nghe gió thì thào:
"A69 đây! A lô, nghe rõ"
Tiếng dỗi hờn như vọng từ trời cao.