Ngay trong những ngày đầu năm mới 2025, tác phẩm Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự (1743 - 1790) đã được tái bản, nhằm chuẩn bị cho sự kiện tưởng niệm 235 năm Ngày mất của ông (vào tháng 9/2025). Tạp chí Hồng Lĩnh số 225 tháng 5/2025 trân trọng giới thiệu bài viết Bản tình ca Hoa Tiên của Nguyễn Tùng Lĩnh
Hoa tiên là một truyện thơ Nôm được Nguyễn Huy Tự viết theo thể lục bát, dựa theo ca bản Đệ bát tài tử Hoa tiên ký của Trung Hoa. Người xưa đánh giá rất cao tác phẩm này, xếp nó vào hàng thứ 8 trong loại “sách tài tử” của Trung Hoa, vì vậy, nó còn có tên là Đệ bát tài tử Hoa tiên ký. Khi sáng tác Hoa tiên, Nguyễn Huy Tự gần như giữ nguyên cốt truyện, giữ nguyên tên các hồi, chỉ bỏ bớt 4 hồi, (từ hồi 43 đến hồi 46 so với ca bản của Trung Hoa) nhằm phù hợp với truyền thống văn hóa của người Việt Nam.
Sau khi ra đời, Hoa tiên rất được giới nho sĩ đương thời quan tâm, nhuận sắc, sửa chữa... Hiện đã có khá nhiều văn bản Hoa tiên được lưu hành như Hoa tiên nhuận chính do Đỗ Hạ Xuyên khắc in năm Ất Hợi đời Tự Đức (1875); bản của Nhà xuất bản Lửa Thiêng, in năm 1958 (1826 câu), dùng trong chương trình Việt - văn bậc trung học, bản này không ghi người nhuận sắc; bản Quốc ngữ phiên âm Hoa tiên nhuận chính qua vifilm của Thư viện Quốc gia Pháp công bố trong tiểu luận văn chương của Bùi Âu Lăng đệ trình tại Viện Đại học Đà Lạt năm 1974; bản do Đào Duy Anh khảo đính dựa trên Bản nôm do dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu cung cấp (1533 câu), được coi là bản gần nguyên gốc; bản nhuận chính của Nguyễn Thiện (1766 câu), in chung trong tập Truyện Hoa tiên do Đào Duy Anh khảo đính, chú thích, giới thiệu, Nhà xuất bản Văn học, 1979; bản do Nguyễn Tùng Lĩnh tuyển chọn, in trong Dòng văn Trường Lưu Hà Tĩnh - Văn chương một nhà, Nhà xuất bản Đại học Vinh, 2022; bản do Nguyễn Huy Dũng và Nguyễn Huy Hoàng “ấn tống”, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, xuất bản quý I năm 2025...
Bản Hoa Tiên do ông Nguyễn Huy Dũng và ông Nguyễn Huy Hoàng “ấn tống”, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông xuất bản quý I năm 2025
Về nội dung, Hoa tiên kể về mối tình giữa Lương Phương Châu và Dương Dao Tiên. Lương Phương Châu (Lương sinh), con quan tể tướng người Tô Châu, thông minh, học giỏi. Chàng đến trọ học tại nhà người cậu ở Tràng Châu. Một đêm, dạo bước dưới ánh trăng, chàng tình cờ gặp mấy cô gái đánh cờ bên đình, trong đó có Dao Tiên, con quan đô đốc họ Dương đang trị nhậm ở Tràng Châu, bèn đem lòng thương nhớ. Chàng nhờ hai cô hầu gái của Dao Tiên là Vân Hướng và Bích Nguyệt giúp đỡ làm quen.
Trong một lần theo cậu đến nhà họ Dương chơi, thấy trên tường có bài thơ Dao Tiên viết, chàng bèn họa lại gửi gắm lòng mình. Dao Tiên xúc động khi đọc bài thơ của Lương sinh, hai cô hầu gái cũng ra sức vun vào. Nhân một đêm trăng đẹp, Lương sinh đã tỏ tình với Dao Tiên. Sau những e ngại ban đầu, hai người đã thề nguyền với nhau, có sự chứng giám của hai cô hầu gái. Lời thề được ghi trên giấy “hoa tiên”.
Tuy nhiên, Lương công trên đường về trí sĩ, đã gặp Lưu công và hỏi con gái Lưu công là Lưu Ngọc Khanh cho Lương sinh. Lương sinh rất đau khổ nhưng không thể trái lời cha, phải phục tùng gia pháp. Khi nghe tin Lương sinh đính hôn với người khác, Dao Tiên đã rất uất ức, oán trách chàng bội ước. Cũng trong thời gian này, Dương công phải lên kinh đô nhậm chức và đem theo cả gia đình, mẹ con Dao Tiên đến ở nhờ người cậu họ Tiền. Lương sinh trở lại Tràng Châu tìm Dao Tiên nhưng không gặp, chàng chán nản, bỏ bê học hành. Nhờ Diêu sinh khuyên nhủ, chàng đã thi đậu, được bổ làm quan ở kinh đô. Tình cờ, chàng lại ở cạnh nhà Dao Tiên. Hai người gặp nhau, kể hết ngọn nguồn. Lúc này, Dương công đang đi dẹp giặc ở chiến trường, bị giặc vây. Lương sinh bèn xin ra trận giải vây cho Dương công để tỏ tấm lòng với người yêu cũ, nhưng không may cũng bị giặc vây.
Nghe tin đồn Lương sinh tử trận, Lưu Ngọc Khanh thề thủ tiết nhưng bị mẹ ép tái giá. Nàng nhảy xuống sông tự vẫn nhưng được thuyền của quan Long Đề học trẩy kinh đi ngang qua cứu được. Diêu sinh lại xin ra trận, liên lạc được với Lương sinh và Dương công, phối hợp phá tan quân địch.
Trong tiệc mừng chiến thắng, vua biết được mối tình của Lương sinh và Dao Tiên, lại nghe tin Lưu Ngọc Khanh đã tự tử, bèn cho hai người kết duyên. Lúc này, thuyền của quan Long Đề học cũng tới kinh đô. Khi hay tin Lương sinh đã cưới Dao Tiên, Lưu Ngọc Khanh định cắt tóc đi tu. Tuy nhiên Long Đề học dâng sớ lên vua, vua lại cho nàng kết duyên cùng Lương sinh. Nghĩ đến công lao của hai nàng hầu là Vân Hướng và Bích Nguyệt, Lương sinh bèn cưới hai nàng làm vợ lẽ. Từ đó, cả gia đình sống trong cảnh đoàn viên, hạnh phúc.
Ngay sau khi Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự ra đời, Nguyễn Thiện (1763 - 1818) đã tiếp cận và nhuận chính đầu tiên, thời gian diễn ra việc này trong khoảng 10 năm cuối thế kỷ XVIII. Tiếp theo Nguyễn Thiện là Vũ Đãi Vấn cũng tham gia nhuận sắc Hoa tiên. Trong bài tựa Hoa tiên ký viết năm 1829, Vũ Đãi Vấn ghi rõ: “Nguyễn Công ở tổng Lai Thạch huyện La Sơn đầu tiên diễn làm quốc âm và Nguyễn Thiện làng Tiên Điền theo đó mà nhuận sắc”. Do chưa thỏa mãn với công phu của người trước nên Vũ Đãi Vấn đã "không quản mình thiển lậu mà đem thêm bớt, thay đổi, sửa chữa, đầy năm mới xong". Bản nhuận sắc này của Vũ Đãi Vấn dài 1860 câu.
Sau hai lần nhuận sắc của Nguyễn Thiện và Vũ Đãi Vấn, Hoa tiên còn được Cao Bá Quát (1808 - 1855) sửa chữa thêm ít nhiều và đề tựa vào năm 1843. Cao Bá Quát đã viết trong lời tựa: “Câu chuyện bắt đầu từ khi gặp gỡ lứa đôi, tây riêng ân ái, mà đạt đến đạo cha con, nghĩa vua tôi, ý nhã thân thiết bạn bè, tình thân yêu mến anh em, lớn thì việc triều đình, quân cơ, lễ khen trung khuyên tiết, nhỏ thì nhân tình thế thái, những điều tinh vi về phong khí cỏ cây; văn thì lạ, nghĩa thì chính, nói về lý thì rạch ròi mà không vướng mắc, nói về đời thì biến hóa mà vẫn giữ thường...”[1].
Có thể nói rằng, trong lịch sử văn học Việt Nam, trước đó chưa có mấy tác phẩm đề cập sâu đến đề tài tình yêu đôi lứa, đến khát vọng tự do yêu đương như ở Hoa tiên. Bằng thể lục bát được thể hiện qua hình thức một truyện thơ Nôm giai nhân - tài tử, Hoa tiên được coi là câu chuyện tình yêu tự do đầu tiên được ghi lại trong kho tàng văn học thành văn nước ta. Cái mới cũng như sự hấp dẫn của câu chuyện tình ái chính là ở chỗ này.
Đặc biệt, Hoa tiên không những là một câu chuyện tình yêu đẹp, sự hấp dẫn ở đây còn là những xung khắc và hòa giải nhiều mối quan hệ về tình yêu và hôn nhân, tình yêu và lễ giáo, cái đẹp và đạo đức... đó chính là những nét đặc sắc đã làm nên giá trị của tác phẩm. Trong Hoa tiên, những câu thơ viết về tình yêu, ca ngợi tình yêu lứa đôi chính là những câu thơ hay nhất, đồng thời đây cũng là phần được tác giả dụng công miêu tả nhiều nhất... Điều này cũng cho thấy, quan niệm về tình yêu, viết về tình yêu của Nguyễn Huy Tự đã có nhiều thay đổi, chuyển biến tích cực, phóng khoáng hơn các nhà nho trước đó nhiều.
Phong tình hết tấc yêu đương,
Lại truyền đem dán phấn tường một bên.
Còn thừa hai cánh hoa tiên,
Chắt chiu sinh đã nong liền vào bao.
Hay:
Trong duyên gặp gỡ với duyên,
Trong tình vẹn vẽ đôi bên mới tình.
Hoặc:
Trăm năm chùng vụng tấm nguyền,
Vừng soi đã hổ với trên đỉnh đầu.
Thề lòng đợi bến Hà Châu,
Đợi nhau nghĩa bộc ca dâu ru mà!
Với những ngôn từ được trau chuốt, mỹ lệ, súc tích, uyển chuyển, giàu tính tạo hình và khá gần gũi với lời ăn tiếng nói của dân gian, Nguyễn Huy Tự đã làm cho tình yêu lứa đôi thêm lãng mạn, đằm thắm.
Chung tình trước một ai đâu,
Còn dan díu lắm còn âu yếm nhiều.
... Trong duyên gặp gỡ với duyên,
Trong tình vẹn vẻ đôi bên mới tình.
Về mặt nghệ thuật, mặc dù phải kế thừa, sử dụng cốt truyện của Trung Quốc nhưng ông đã biến Đệ bát tài tử Hoa tiên ký thành Hoa tiên với màu sắc, dấu ấn hoàn toàn Việt Nam. Thế giới nghệ thuật trong Hoa tiên có khung cảnh thật lãng mạn, thiên nhiên đầy ánh trăng mơ mộng và huyền ảo. Tịnh Tĩnh Trai (Trung Quốc) đã coi Hoa tiên “khởi bằng gió trăng, kết bằng gió trăng mà trong khoảng giữa không có điểm xuyết nào thoát ra ngoài hai chữ gió trăng”[2]. Trăng gió trong Hoa tiên thật đẹp, thật huyền ảo:
Gác rèm câu nguyệt xiên xiên,
Này hôm ả Chức chàng Khiên họp vầy...
... Gió thanh hây hẩy gác vàng,
Thảnh thơi chèo Phó nhẹ nhàng gánh Y...
Hoa tiên là một bản tình ca đẹp, một câu chuyện tình yêu diễm lệ. Hoa tiên giống như một người đẹp dịu dàng, kín đáo và khó “nắm bắt”, nhưng khi đã “nắm bắt”, cảm nhận được thì sẽ làm cho người đọc say đắm, đam mê.
Ngày nay, nhìn lại hành trình kiến tạo văn hóa, văn học của dân tộc, chúng ta càng khâm phục các thế hệ đi trước. Với Nguyễn Huy Tự, từ một ca bản của Trung Quốc, ông đã biến nó thành một tác phẩm mang màu sắc hoàn toàn Việt Nam, phù hợp với tâm tư, tình cảm, bản sắc con người Việt Nam. Đây cũng chính là sự thể hiện cái phông văn hóa, tầm cao văn hóa trong con người Nguyễn Huy Tự cũng như chính tác phẩm Hoa tiên.
N.T.L
_____________________
[1]. Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện (1978), Truyện Hoa tiên, (Đào Duy Anh khảo đính, chú thích và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội, tr.9.
[2]. Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện (1961), Truyện Hoa tiên, (Lại Ngọc Cang khảo đính và giới thiệu), Nxb Văn hóa, Hà Nội, tr.10.