15-02-2016 - 20:20

Nhà thơ lớn Xuân Diệu

Tạp chí Hồng Lĩnh số tết Bính Thân (113+114) giới thiệu đến bạn đọc tác phẩm "Nhà thơ lớn Xuân Diệu" của Nhà nghiên cứu văn hóa Thái Kim Đỉnh.

Xuân Diệu, họ Ngô, là con trưởng cụ Tú kép Ngô Xuân Thụ (Thọ), quê xã Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh và cụ bà Nguyễn Thị Hiệp người vạn Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Xuân Diệu sinh ngày 2-2-1916 tại quê mẹ, vạn Gò Bồi. Thuở nhỏ ông học chữ Nho, quốc ngữ và cả tiếng Pháp với cha, rồi xuống học trường Quy Nhơn năm 1927, và đỗ thành chung năm 1934. Năm 1935-1936, ông ra học tú tài phần thứ nhất ở trường trung học bảo hộ tại Hà Nội. Cuối năm 1936 ông vào Huế học tú tài phần thứ hai ở trường trung học Khải Định.

Ở đây Xuân Diệu gặp Huy Cận và hai nhà thơ trở thành đôi bạn thân thiết suốt đời. Huy Cận viết: “Tình bạn của chúng tôi, ngay lúc đó không chỉ đóng khung trong địa hạt văn chương. Tháng 5-1937 trong trường có cuộc vận động đón Gôđa, đại diện của Chính phủ bình dân Pháp đến Huế. Anh Xuân Diệu cầm đầu đám học sinh 3 lớp ban Tú tài đi đón. Tôi còn nhớ rõ anh Diệu bảo người gác cổng khoá cổng trường lại không cho những kẻ nhút nhát rút lui về. Sau cuộc đón ấy, anh Diệu, tôi và một số anh em khác bị cắt học bổng, suýt nữa thì bị đuổi”. Năm 1938-1940 Xuân Diệu ở cùng Huy Cận trên gác nhà số 40 Hàng Than Hà Nội, vừa tiếp tục học luật và dạy văn ở trường Thăng Long. Thi đỗ tham tá Thương chính, ông được bổ vào làm việc ở Sở Đoan Mỹ Tho, cho đến khi Huy Cận tốt nghiệp kỹ sư canh nông, Xuân Diệu lại xin thôi việc ra Hà Nội.

*

Cuối năm 1943, đầu năm 1944, ông bắt đầu hoạt động cách mạng bí mật trong Việt Minh và trong Đảng dân chủ và tham gia Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền tại thủ đô.

Xuân Diệu được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I (1946-1960). Ông là đại biểu nhà báo tham gia phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sang thăm nước Pháp. Trong kháng chiến, ông lên Việt Bắc, công tác ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Hội nhà văn Việt Nam thành lập, ông được bầu vào Ban chấp hành và tham gia ban biên tập Tạp chí Văn nghệ, cơ quan của Hội. Năm 1949 Xuân Diệu được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam.

Từ sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Xuân Diệu đi thăm Liên Xô, Hungari (1956); dự hội nghị trù bị các nhà văn Á châu ở Niu Đêli và thăm Ân Độ hai tháng (1958). Liên tiếp sau đó, ông lại có nhiều cuộc đi trong, ngoài nước: Trở lại miền Nam ngay sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, thăm quê Bình Định và Sài Gòn, Mỹ Tho, Cà Mau, Plâycu...; Tham dự hội nghị các nhà văn thế giới bảo vệ hoà bình lần thứ 2 ở Xôphia, Bungari; Được mời sang Pháp nói chuyện về thơ Việt Nam tại các trường đại học Pari VII, Ni-xơ, Xoóc-bon; Sang Cuba dự lễ mừng thọ Nicôlai Ghiden ở La Habana...

Năm 1983, Xuân Diệu được Viện hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa dân chủ Đức bầu làm viện sĩ thông tấn. Tham gia đoàn đại biểu Việt Nam dự Tuần lễ văn hoá Việt Nam tại Liên Xô trở về, ông đi thăm miền Nam lần cuối cùng và từ trần ngày 18-12-1985 tại Hà Nội, sau một cơn đau tim đột ngột, thọ 69 tuổi.

Sự ra đi của Xuân Diệu là một tổn thất lớn khó bù đắp được. “Một cây lớn nằm xuống, làm cho cả khoảng trời trống vắng”, đó là đánh giá trong bài điếu văn do nhà văn Hà Xuân Trường đọc trong lễ truy điệu nhà thơ Xuân Diệu ngày 21-12-1985.

Xuân Diệu là một nhà hoạt động văn hóa và xã hội tích cực. Ông đã từng là đại biểu Quốc hội; Ủy viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch hội đồng thơ của Hội; Ủy viên Ủy ban Trung ương liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam; Ủy viên BCH Hội hữu nghị Việt Xô; Viện sĩ Viện hàn lâm nghệ thuật của Cộng hòa dân chủ Đức..., ông được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1).

Xuân Diệu là nhà thơ lớn, là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Ngay khi bài thơ đầu tiên gửi đến báo Phong Hóa, Thế Lữ đã nhận xét: "Xuân Diệu là thi sĩ có một tâm hồn đằm thắm và rất dễ cảm xúc" và trong bài tựa viết cho Thơ thơ (1938) thì Thế Lữ reo lên: “Thơ thơ là cụm đầu mùa chàng tặng cho nhân gian. Và từ đây chúng ta đã có Xuân Diệu”. Vũ Ngọc Phan trong sách Nhà văn hiện đại (quyển 3) cũng có nhận xét:“Người ta thấy thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất trong tất cả các thơ mới”. Chính cái đằm thắm, cái nồng nàn, cái lạ trong thơ Xuân Diệu đã “làm cho nhiều người thanh niên ngây ngất” (V.N. Phan).

“... Tập Thơ thơ xuất bản một ngày Nô-en 1938 là thịnh thời của Thơ Mới, xuất hiện trước đó không lâu, và Gửi hương cho gió xuất bản năm 1945 là cao điểm, đồng thời là dứt điểm, về ý lẫn lời, Xuân Diệu là người tạo sinh lực cho Thơ Mới - hiểu theo nghĩa một trào lưu trong lịch sử văn học...” (Nam Chi). Trong bài “Xuân Diệu và chặng đường thơ văn trước cách mạng”  Hà Minh Đức viết:

“... Khoảng thời gian gần mười năm đã nói lên bao sự đổi thay. Từ một Xuân Diệu lãng mạn, non tơ, bay bổng trong dòng thơ đầu cho đến một Xuân Diệu chín chắn, ưu tư và có phần chán nản trước cuộc đời là hai chặng đường thơ hiển hiện mối quan hệ giữa thơ và đời.

“Nhà thơ Huy Cận nhận xét: “Hai tác phẩm bổ sung cho nhau để tạo nên hồn thơ Xuân Diệu. Nói Thơ thơ hơn Gửi hương cho gió là không đúng vì nghệ thuật của Gửi hương cho gió là chín hơn. Ngược lại cũng không thể nói Gửi hương cho gió hay hơn Thơ thơ. Thơ thơ có nhiều chất non tơ, rạo rực thiết tha và hồn thơ trong trẻo. Gửi hương cho gió đắm như than hồng phủ kín lớp tro mỏng và cũng có xen vị đắng cay trong tình đời và tình yêu”.

Tế Hanh cũng cho rằng: “Thơ thơ có hương vị của tập thơ đầu tươi trẻ. Gửi hương cho gió đắm sâu thiết tha”.

“Nguyễn Xuân Sanh cũng nhận xét: “Ở tập đầu rạo rực, tươi trẻ, ở tập sau méditations của Xuân Diệu sâu hơn”.

... “Xuân Diệu có lần tâm sự: “Thơ thơ là premier jet non tơ hơn. Gửi hương cho gió chín hơn, già dặn hơn. Bài hay nằm trong Thơ thơ nhiều: Nụ cười xuân, Đây mùa thu tới, Vội vàng, Tương tư chiều, Ca tụng; Cảm xúc, Với bàn tay ấy. Tuy nhiên, Gửi hương cho gió lại có những bài chín hơn về nghệ thuật. Lời kỹ nữ là bài hay nhất trong Gửi hương cho gió. Nguyệt cầm tinh vi và cao cường quá, phải láy luyến từng chữ như từng nốt đàn”... (Nghiên cứu Văn học - số 12-1995)

Cùng với hai tập thơ, Xuân Diệu còn có tập truyện ngắn “Phấn thông vàng”, nhưng như tác giả viết trong lời tựa: “Ở đây chỉ có một ít đời và rất nhiều tâm hồn”, Vũ Ngọc Phan lại nhận xét: “Xuân Diệu ở đây cũng đem theo một hồn thơ bát ngát và mơ màng. Trong quyển Phấn thông vàng mà Xuân Diệu gọi là một tập tiểu thuyết ngắn, tôi chỉ thấy rặt thơ là thơ’...”... dù ở văn xuôi hay văn vần, bao giờ Xuân Diệu cũng là một thi sĩ” (Nhà văn hiện đại - Quyển 3).

Trong bài Một thời đại trong thi ca (Thi nhân Việt Nam) Hoài Thanh viết:

“... Tôi không so sánh các nhà thơ mới với Nguyễn Du để xem ai hơn ai kém. Đời xưa có thể có những bậc kỳ-tài đời nay không sánh kịp. Đừng lấy một người sánh với một người, hãy sánh thời-đại cùng thời-đại. Tôi quyết rằng trong lịch-sử thi-ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời-đại phong-phú như thời-đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất-hiện cùng một lần một hồn thơ rộng-mở như Thế-Lữ, mơ-màng như Lưu-Trọng- Lư, hùng-tráng như Huy-Thông, trong-sáng như Nguyễn-Nhược-Pháp, ảo-não như Huy-Cận, quê-mùa như Nguyễn-Bính, kỳ-dị như Chế-Lan- Viên,... và thiết-tha, rạo-rực, băn-khoăn như Xuân Diệu...” “Xuân Diệu, nhà thơ ra đời hồi bấy giờ, mới một cách rõ-rệt. Với Thế-Lữ, thi-nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân-Diệu đốt cảnh bồng-lai và xua ai nấy về hạ giới. Với một nghệ-thuật tinh-vi đã học được của Baudelaire, Xuân-Diệu diễn-tả lòng ham sống bồng-bột trong thơ De Noailles và trong văn Gide... Ảnh hưởng Pháp trong thơ Việt đến Xuân-Diệu là cực-điểm. Qua năm 1938 Huy-Cận ra đời, nó đã bắt đầu xuống, mặc dầu Huy-Cận cũng chịu ảnh-hưởng thơ Pháp gần đây, nhất là ảnh-hưởng Verlaine...” “... Từ Xuân-Diệu, Huy-Cận, thơ Việt-Nam đã có tính cách của thơ Pháp lối tượng-trưng. Nhưng còn dè-dặt...”

”... Xuân-Diệu, nhà thơ đại-biểu đầy-đủ nhất cho thời-đại...”

Xuân Diệu là nhà thơ lãng mạn trước khi đến với cách mạng. Nhưng “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người, lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông đã không trốn tránh mà lại còn quyến luyến cõi đòi và lời nguyện ước của ông có bao nhiêu sức mạnh” (Tựa Thơ thơ).

Do đó, Xuân Diệu hăm hở đi vào cách mạng như một chiến sĩ tiên phong mặc dầu đôi lúc không khỏi vướng mắc dằn vặt, nuối tiếc cái cũ như nhà thơ bộc lộ trong Những bước đường tư tưởng của tôi.

*

Cách mạng vừa thành công, Xuân Diệu có ngay khúc tráng ca Ngọn quốc kỳ, rồi tác phẩm Hội nghị non sông chào mừng quốc dân Đại hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và những bài thơ đả kích bọn phản động Việt quốc, Việt cách. Các tác phẩm trên “đánh dấu một giai đoạn chuyển biến đặc biệt làm ngạc nhiên người đọc” (Hoàng Trung Thông).

“Thực dân Pháp đánh Nam bộ, rồi toàn dân kháng chiến, Đảng giao nhiệm vụ giết giặc cứu nước cho ngòi bút tôi. Tôi rộng mở bước vào kháng chiến trường kỳ...” Nhà thơ kể lại như vậy, và từ đó ông đã cùng xương thịt với nhân dân”, “cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu” để có một sự nghiệp văn học đồ sộ. Sự nghiệp mà Xuân Diệu để lại là sự nghiệp lớn lao bao gồm năm chục tập sách trong đó có 15 tập thơ đã xuất bản, chưa kể nhiều tác phẩm cho đến nay vẫn chưa công bố”. Chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia.

... Xuân Diệu đã làm chói ngòi hơn lên nữa những tên tuổi lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, đến Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu bình giá các tác giả thơ trong nước và giới thiệu các tên tuổi lớn của nước ngoài, các công trình nghiên cứu của Xuân Diệu không chỉ có giá trị ở ma lực đặc biệt của ngôn ngữ và văn phong, mà có giá trị ở tính bao quát và sự đạt tới chân lý trong nhiều tác phẩm. Các tác phẩm đi sâu vào nghề nghiệp làm thơ của Xuân Diệu là cả một kho tàng kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn và từ vốn học thức uyên bác của anh.

Xuân Diệu viết truyện ngắn, viết bút ký, dịch thuật, trong lĩnh vực nào anh cũng đạt tối đa mức xuất sắc, nhưng hoạt động sáng tác vẫn là chủ yếu, sáng tác chủ yếu của anh vẫn là thơ. Thơ anh là tiếng ca của một trái tim dào dạt yêu đời, yêu người, yêu nước, yêu dân...” (Điếu văn).

*

Về giá trị thơ văn Xuân Diệu đã có hàng loạt bài, hàng loạt sách trong và ngoài nước nói đến, và điều mà nhiều người hay nhắc và nhà thơ thích nhất, là “Xuân Diệu nhà thơ tình yêu”.

Xuân Diệu làm thơ, viết nghiên cứu, bình luận, giới thiệu thơ, ông còn đi bình thơ trước công chúng. Kể từ cuộc diễn thuyết đầu tiên về đề tài “Sinh viên với quốc văn” tháng 2-1945 đến lúc qua đời, Xuân Diệu đã nói chuyện thơ trong ngoài nước ngót 500 cuộc (có người nói là ngót 1000), có khi trong vòng 4 ngày, phải nói chuyện 5 lần rồi có người mời lại đi nói nữa. Ông nói với nhà văn Liên Xô Alếchxây Vaxiliép: “Vâng, tôi là một trái cam, hãy vắt kiệt lấy nước của nó”. Nhưng “trái cam” Xuân Diệu bị vắt mãi vẫn không hề kiệt nước. Marây Găngxen (Pháp) viết: “Xuân Diệu như một người hát dạo của nhân dân trong thời kỳ hiện đại thường đi bình thơ từ tỉnh này đến tỉnh khác, từ làng quê đến phố phường.

Những câu thơ của anh là nhạc - một nhạc điệu nhẹ nhàng tinh tế, rất uyên bác và gọt dũa rất kỳ công... còn Xuân Diệu thì tự hào nhận mình là “anh xẩm thơ”. Marian Tca-sép (Liên Xô) viết: “... Bà mẹ và ông bố khi đặt tên cho con mình là Xuân Diệu, có nghĩa là mùa xuân kỳ diệu, cũng chưa hay biết rằng cái tên ấy về sau sẽ xác định một cách không thể nào đúng hơn nữa - tài năng tươi sáng và phong phú... Còn M. Ilinxki thì cho rằng: “Xuân Diệu một trong những người mà mọi người nói: Tỉnh dậy anh ta bổng trở nên nổi tiếng!. Và Blaga Đimitrôva, nhà thơ Bun-ga-ri, coi Xuân Diệu là: “Một thiên tài độc đáo duy nhất...”.

Mỗi người một cách nói, nhưng bất cứ ai, cũng có một sự đánh giá cao về “Nhà thơ yêu nước, nhà thơ quốc tế Xuân Diệu” (Hinxki, Liên Xô) với sự nghiệp lớn của ông.

Nam Chi, Việt kiều ở Pháp viết: “... Tôi mạn phép tượng trưng sự nghiệp Xuân Diệu như một chuỗi dài cống hiến. Thế mà chao ôi, chính anh còn tự trách mình làm việc quá ít”. “Là thi sĩ... nghĩa là lao động” (Thép mới). “Bài học lớn nhất mà Xuân Diệu để lại cho các thế hệ cầm bút về sau là tấm gương lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần cù, say mê, đầy sáng tạo...” (Điếu văn).

Nhà thơ lớn Xuân Diệu đã đi xa gần ba thập niên nhưng như MI-rây Găng-xen viết: "Một nhà thơ là rễ cây và gió - là đất và nhạc. Khi một nhà thơ lớn đi xa, nhân dân của nhà thơ khóc trước hết. Và nhân dân các nước sẽ dần dần khám phá ra anh, có khi nhiều năm sau, có khi những thế kỷ sau, và một ngày nào đó, sẽ biết đến cái chết của anh và nghe được tiếng nói của anh. Xuân Diệu là rễ cây và gió, là đất và nhạc...".

. . . . .
Loading the player...