22-08-2023 - 01:56

Lời bào chữa của Hoạn Thư xét từ góc nhìn Dịch lý

Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu bài viết “Lời bào chữa của Hoạn Thư xét từ góc nhìn Dịch lý” của Lê Nguyên Cẩn

       Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng những giá trị văn hóa đa diện mà việc đọc và giải mã các mặt văn hóa đó có sức hút kỳ lạ, không chỉ cho giới nghiên cứu phê bình, những người sành văn chương… mà cho mọi lứa tuổi, cho các trạng huống tâm thần thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Truyện Kiều không chỉ trở thành một dạng công thức để tập Kiều hay để rút ra những câu thơ phù hợp trong sinh hoạt đối đáp theo lối lẩy Kiều, vịnh Kiều mà còn được sử dụng như một phương tiện phục vụ cho mục đích tiên tri dự báo, được gọi là bói Kiều. Để có thể trở thành hay mang được tính chất đáp ứng mục đích dự báo, Truyện Kiều, đương nhiên cũng như các phương tiện phục vụ cho mục đích dự báo khác mà con người đã tạo ra trong thực tiễn đời sống, phải chứa đựng những khả năng đáp ứng cho yêu cầu dự báo, chứa đựng những khả thể có thể xảy ra theo những kịch bản khác nhau. Nói cách khác, Truyện Kiều cũng phải chứa đựng những yếu tố hay năng lực dự báo tùy theo cách hiểu, cách tiếp nhận, nghĩa là tự thân nó phải chứa đựng những ký hiệu để xác lập nguyên tắc tạo mã, để từ đó có thể rút ra chìa khóa giải mã, dẫn tới hình thức bói Kiều trong dân gian. Trên thế giới, Kinh Dịch, Kinh Thánh, thơ của Hafez (nhà thơ lớn của Ba tư trung cổ, khoảng 1321 - 1390); hay sử thi Bắc Âu, ngoài việc đảm nhiệm các chức năng văn học và  tâm linh trong đời sống xã hội, cũng được dùng cho mục đích tiên tri dự báo.

Minh họa cảnh Hoạn Thư đánh ghen trong Truyện Kiều. Nguồn: khxhnvnghean.gov.vn

       Trong bài viết này, chúng tôi kiến giải tình huống tự bào chữa của nhân vật Hoạn Thư từ góc nhìn Dịch lý, để làm sáng tỏ tính chất phương tiện tiên tri dự báo của Truyện Kiều, tính chất đảm bảo cho Truyện Kiều thực hiện một chức năng xã hội khác, ngoài các chức năng đã có của văn học. Khi xác lập và gọi tên các quẻ, xác định âm hay dương, hào âm hay hào dương, chúng tôi dựa vào các qui ước đã có trong Kinh Dịch hay được qui định trong các chuyên khảo bàn về âm dương ngũ hành. Những lời tự bào chữa của Hoạn Thư được đưa ra khi Hoạn Thư bị đưa đến nơi xử án, thường được gọi là màn báo ân báo oán, là một bước ngoặt đặc sắc trong nghệ thuật tổ chức cốt truyện.

       Sau khi nghe những lời phủ đầu đầy cay nghiệt, đầy ấm ức: “Kiến bò miệng chén chưa lâu/ Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” của Kiều, trong vị thế người xử án, thì cho dù “hồn lạc phách xiêu”, Hoạn Thư vẫn đủ tỉnh táo để tự bào chữa một cách minh bạch, khúc chiết, thấu tình đạt lý, không chỉ là nói phải củ cải cũng nghe mà dựa trên logic Dịch lý, lập luận chặt chẽ theo triết lý âm dương ngũ hành, vừa thể hiện năng lực trí tuệ và khả năng học vấn của nhân vật này, vừa cho thấy năng lực trí tuệ của đối thủ là Thúy Kiều. Ta sẽ phân tích theo thứ tự từng câu để làm rõ tính chất Dịch lý trong lời tự bào chữa này.

       Trước hết, tính chất thuần âm được biểu lộ rõ trong câu: Rằng: “Tôi chút phận đàn bà…”.  Ở đây: Tôi = Hoạn Thư = nữ thì đương nhiên là âm theo qui ước của Dịch lý; chút phận = nhỏ mọn, nhỏ nhoi cũng thể hiện tính âm, đối lập với to lớn mang tính dương trong tương quan so sánh ngầm giữa vị thế của Hoạn Thư và vị thế hiện tại của Kiều; còn đàn bà thì đương nhiên là âm rồi, cho nên các hào ở đây toàn âm, ba hào âm kết lại thành quẻ Khôn (vi địa, âm thổ). Câu mở đầu lời tự bào chữa cho thấy hoàn cảnh Hoạn Thư đang gặp phải, cho thấy Hoạn Thư đã rơi vào trạng thái toàn âm. Quẻ Khôn biểu tượng cho đất, cho sự tĩnh tại hay bất động, nghĩa là Hoạn Thư đã rơi vào trạng huống “dịch cùng tắc biến”, mà nếu không biến được thì mọi việc sẽ kết thúc bi thảm ở đây.  Quẻ Khôn, vừa là khả năng chứa đựng vạn vật, hấp thu mọi năng lượng, gánh vác và chịu đựng tất cả, vừa là biểu trưng cho người mẹ, cho trưởng nữ, mà ở đây còn cho cả vai trò chính thất nữa. Cấu trúc thuần âm này đã từng xuất hiện khi Kiều bị Tú Bà dùng chước đà đao bắt lại khi Kiều nghe lời Sở Khanh đi trốn: “Rằng : Tôi chút phận đàn bà, Nước non lìa cửa lìa nhà  đến đây”, câu thơ này đánh dấu thời điểm mở đầu bĩ cực của Kiều, với khả năng biểu đạt nhiều nghĩa.

       Vì vậy, câu thơ tiếp theo: “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”, xuất hiện yếu tố tạo “biến” để chuyển hóa, nếu không mọi việc sẽ kết thúc bi thảm. Yếu tố đó là ghen tuông, một sản phẩm của tính cách con người nhưng bao giờ cũng được thể hiện ra ngoài (các hình thức ghen tuông hay đánh ghen), tức là mang tính dương, theo qui ước trong âm ngoài dương. Tính dương này được khẳng định như là một hiện tượng phổ quát: “thì cũng”, mà đã là phổ quát thì có nghĩa là ai cũng có ít nhất một lần trong đời, nghĩa là ghen tuông là hiện tượng mang tính xã hội khả dĩ chấp nhận được và yếu tố này tạo ra tình tiết giảm nhẹ trong xét xử, và cũng mang tính dương, vì được thể hiện trên bề mặt. Cái phổ quát đó được khẳng định hai lần. Lần thứ nhất bởi “người ta” mà có thể hiểu “người ta” ở đây là cả thiên hạ, có thể hiểu “người ta” ở đây là Kiều và đương nhiên “người ta” còn là Hoạn Thư nữa, nghĩa là Hoạn Thư và việc ghen tuông của Hoạn Thư cũng nằm trong quỹ đạo nhân tính. Phẩm chất nhân tính được khẳng định tiếp tục bằng “thường tình”, bằng sự thể hiện ra ngoài, tức là được mang tính dương. Bởi những gì nhìn được bằng mắt thì mang tính dương, những gì chỉ cảm nhận được bằng suy lý thì mang tính âm. Lần khẳng định thứ hai này nhấn mạnh tính chất phổ quát, đặt sự việc ghen tuông thành một sự việc tầm thường chẳng có gì to tát mà phải đao to búa lớn, hay phải cần đến một tòa án có qui mô như Kiều đã triển khai để xét xử Hoạn Thư. Ở đây có sự đối lập trong quan niệm sống giữa một bên là quan niệm của Hoạn Thư, một bên là quan niệm của Kiều: “Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư”. Việc ghen tuông bình thường bị xé thành to theo quan niệm của Hoạn Thư và cách xé chuyện bé thành chuyện to như Kiều đang làm, tạo ra sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, thể hiện quyết tâm buộc tội Hoạn Thư của Kiều. Vì sự khẳng định hai lần này được biểu lộ ra ngoài nên nó mang tính dương. Như vậy, tính chất dương của quẻ này được thể hiện trong toàn bộ câu thơ, tạo ra quẻ Càn (thuần Càn, dương kim).

       Vì câu trên là quẻ Khôn, nghĩa là mẹ, câu dưới là quẻ Càn, nghĩa là cha;  câu lục mang tính chất lục khí, câu bát mang tính chất bát quái, nên tạo ra sự hợp vần diễn tả sự chuyển hóa âm dương. Câu lục là mẹ, đi trước câu bát là cha, theo trật tự trong nghi thức lời nói của người Việt: Mẹ - Cha, vợ - chồng, Bà trời - ông Giăng… theo cách thức diễn đạt và thể hiện Dịch lý thuần Việt, theo truyền thống đạo Mẫu. Nhưng Càn Khôn tự thân chúng cũng là Cương (cha) - Nhu (mẹ) của cuộc sống đời thường, do đó, nguyên tắc lấy nhu thắng cương trở thành nguyên tắc ứng xử linh hoạt của người Việt trong thực tiễn, cũng hé lộ ở đây.

       Khi đã có mẹ có cha thì tất yếu sẽ sinh ra các con mà vì thế các câu thơ tiếp theo được tổ chức theo cách thức kể liệt kê sự việc: Nghĩ cho khi các viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo…Trước hết, câu thơ Nghĩ cho khi các viết kinh xác lập mốc giới thời gian gắn với việc phải làm của chủ tọa phiên tòa: “Nghĩ cho…”. Lúc này, yếu tố dương lộ diện, bởi cái Nghĩ cho này mang tính hiện tại, biểu thị thời gian hiện tại. Những gì thuộc về hiện tại, để biểu thị hiện tại hay đang trong hiện tại thì đều là dương, được biểu thị bằng một vạch liền, tức là hào dương. Hào tiếp theo để tạo thành quẻ này lại gắn với một sự việc đã thuộc về quá khứ. Những gì thuộc về quá khứ đều được qui ước là âm. Sự việc này tái hiện những gì đã diễn ra trong quá khứ, mà điểm nhấn là sự kiện sửa sai chuyện ghen tuông do chính Hoạn Thư thực hiện, nhờ đó Kiều ít nhất cũng thoát khỏi khổ nạn “con ở chúa nhà”, trở lại có danh có phận. Nhưng vì là sự việc đã xảy ra trong quá khứ nên nó thuộc âm. Cụm từ: “khi các viết kinh”, có hai sự kiện mang tính âm: một là Kiều được cho chỗ ăn ở riêng biệt, nếu không nói là quá đường hoàng (các), hai là  Kiều được có công việc cụ thể, xa tục lánh trần, tại đó Kiều thực hành tu thân bằng viết kinh. Quẻ Chấn (ngưỡng bồn dương mộc), với một hào dương và hai hào âm, xuất hiện ở đây. Chấn mang nghĩa sấm động cho nên khi sấm đã làm chuyển động không gian thì mọi sự sẽ thay đổi, câu chuyện được đẩy lên bằng những sự việc tiếp nối xảy ra sau đó. Quẻ Chấn do quẻ Khôn mà ra, là biểu tượng rồng từ dưới vực sâu bay vút lên bầu trời bão tố.

       Câu Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo cũng bắt đầu bằng một sự kiện đã thuộc về quá khứ: sự kiện Kiều phải bỏ trốn khỏi Quan Âm Các sau cuộc hội ngộ bi thương “nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than”, mà gắn với sự kiện này là cách hành xử của Hoạn Thư: “dứt tình - chẳng theo”. Cách hành xử này xảy ra sau khi Kiều đã bỏ trốn, mà cụm từ Với khi khỏi cửa cho thấy hoàn cảnh lộ liễu bất thường, nhưng dứt khoát “đường ai nấy đi”, song không cạn tàu ráo máng, không truy sát đến cùng. Cách hành xử của Hoạn Thư với Kiều được thực hiện ngay sau thời điểm Với khi khỏi cửa đã xảy ra, nên chúng mang tính dương. Một mặt, sự việc này thể hiện thái độ dứt khoát: “dứt tình”, coi như giữa hai bên, giữa Hoạn Thư và Kiều không còn nợ nần gì với nhau nữa, trở thành những người xa lạ với nhau, mà cụm từ “chẳng theo” mang tính dương mạnh nhất. Bởi vì, ta biết khi đi trốn Kiều có mang theo các đồ chuông khánh của Quan Âm Các, mà sau này khi Kiều tá túc ở Chiểu ẩn am thì có người phát hiện ra là : “Khéo giống của nhà Hoạn nương”. Đây là một chi tiết chứng tỏ Hoạn Thư rất cao tay, Hoạn Thư biết mất đồ, biết cả nơi Kiều đang ở, nhưng Hoạn Thư không truy sát. Đây là chỗ tính dương biểu thị vẻ đẹp vị tha của Hoạn Thư và cũng là chỗ biểu thị tính chất văn hóa vợ chồng của người Việt: Hoạn Thư chỉ cần giữ chồng thôi, chỉ cần êm cửa ấm nhà thôi, cho nên đã thể tất nhân tình tha thứ cho Kiều, thể hiện sự trọn vẹn trước sau: “Ví bằng thú thật cùng ta/ Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên/ Dại chi chẳng giữ lấy nền/Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình”. Câu Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo có hào thứ nhất âm, hai hào tiếp theo dương, tạo thành quẻ Tốn ( âm mộc). Hào âm ở dưới tĩnh, hai hào dương ở trên động, tượng trưng đất thì tĩnh, còn vật ở bên trên, tức là gió thổi, thì động, nên Tốn là gió. Gió làm cho tiếng sấm vang xa hơn, uy lực hơn. Sự vận động của câu thơ cũng cho thấy cách thức chuyển hóa âm dương rất rõ, là sự vận động từ trong ra ngoài, từ bóng tối ra ánh sáng, tạo ra một sự tường trình minh bạch, có lý có tình, có trên có dưới, có phải có trái, có học thức đường hoàng chứ không phải là loại đầu bờ cuối bãi, trên bộc trong dâu.

       Sự trần tình được tiếp diễn thông qua hình thức thổ lộ, bộc bạch chân tình: “Lòng riêng riêng những kính yêu” cũng mở đầu bằng hào âm (lòng riêng, vì theo nguyên tắc cái gì riêng cũng thuộc âm) và được hé lộ hay biểu lộ ra bên ngoài: riêng những - kính yêu, mà ở đây cụm từ riêng những cho thấy phẩm chất thật lòng bên trong của tình cảm Hoạn Thư (Tiểu thư xem cũng thương tài/ Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân), tạo thêm một hào âm nữa để sau đó trừu xuất thành sự khẳng định thật sự thật lòng: kính yêu, thể hiện trong tính chất “kính”, theo nghĩa thông thường, là sự tôn trọng người tài đức; “yêu” là cung bậc cao nhất của tình cảm giữa người và người, là sự thông cảm tột cùng với nhau (thương nhau chín bỏ làm mười). Sự khẳng định kính yêu tạo ra hào dương trong quẻ gắn với câu thơ này: hai âm một dương tạo thành quẻ Cấn (phú uyển dương thổ), gồm một hào Dương trên cùng là cứng, là núi; hai hào Âm bên dưới là mềm, là đất, tượng trưng cho sự chờ đợi trong lặng lẽ, biểu trưng cho tình trạng cô đơn, đơn thương độc mã của Hoạn Thư.

       Câu thơ tiếp theo: Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai, mang tới hào dương đầu tiên bằng sự khẳng định hiển nhiên Chồng chung hay trạng thái chung chồng, tức là một tình huống bất đắc dĩ được tạo ra (và thực tế đã được tạo ra nhưng không hoàn hảo, vì Thúc Sinh đã được gia đình cho cưới Kiều làm vợ theo đúng nghi thức: Kiệu hoa cất gió đuốc hồng ruổi sao/ Bày hàng cổ xúy xôn xao…, nhưng vẫn giấu giếm Hoạn Thư trong khi Hoạn Thư vẫn là chính thất). Nếu cả hai người bị đặt vào hoàn cảnh chồng chung - chung chồng như vậy thì tất yếu chưa dễ ai chiều cho ai, tức là một sự thực khả dĩ không tránh khỏi, biểu thị xung đột vợ lớn vợ bé trong gia đình. Cụm từ chưa dễ ai chiều cho ai tạo ra hai hào, một âm một dương, thể hiện khả năng xung đột không ai nhường ai, ai cũng phải mà ai cũng trái đó. Ta có quẻ hai dương một âm, là quẻ Đoài (thượng khuyết âm kim), gồm một hào Âm trên hai hào Dương, tạo ra tính chất thượng khuyết, ám chỉ vai trò yếu kém của anh chồng Thúc Sinh: “Nghĩ đà bưng kín miệng bình/ Nào ai có khảo mà mình lại xưng”, bởi anh ta  “Thấp cơ thua trí đàn bà/ Trông vào đau ruột nói ra ngại lời”.

       Sự trần tình bộc bạch, bằng những điểm nhấn có trọng lượng, có sức thuyết phục cao và không thể bắt bẻ, chấm dứt với sự trở về thực tại đang diễn ra: “Trót lòng gây việc chông gai/ Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?”. Câu Trót lòng gây việc chông gai với cụm từ trót lòng tạo ra hào âm đầu tiên của quẻ vì là sự đã rồi; cụm từ gây việc mang tính chất dương; còn cụm từ chông gai chỉ tính chất của việc đã gây ra, do đó thuộc âm. Ta có hào dưới âm, hào giữa dương, hào trên âm, tạo thành quẻ Khảm (trung mãn dương thủy). Hai hào âm trên và dưới ôm lấy dương. Hào dương như một dòng chảy ở giữa, mà dòng chảy thì tự thân vận động, phải tự mình cứu mình, bổ sung cho tính chất cô đơn của Hoạn Thư trong hoàn cảnh này.

       Câu thơ Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng? Ngoài phải mang tính chất là một lời cầu xin nhưng điều quan trọng nhất là nó gắn với thời điểm hiện tại, nghĩa là thời điểm Hoạn Thư đang bị xử án, cho nên tính chất dương được bộc lộ ra. Cụm từ còn nhờ mang tính dương bởi nó yêu cầu hành động phải diễn ra trước mắt, phải được mọi người thấy. Cụm từ này được nhấn mạnh thêm bằng cụm từ nào chăng, như là cách thức đòi hỏi, là yêu cầu được đặt ra. Tổ hợp còn nhờ - nào chăng mang tính dương, gợi ra lối mở hay cách thức giải quyết vấn đề cho bài toán trả hận hờn ghen của Kiều. Bài toán này bị qui định bởi phẩm chất lượng bể thương bài, tức là phụ thuộc vào tình cảm và tính người của Kiều, phụ thuộc những yếu tố bên trong, thuộc nội tâm hay tấm lòng con người, bởi chẳng ai hình dung được lượng bể hay tình thương nếu chúng không hiện hình qua hành động cụ thể. Cụm từ lượng bể thương bài diễn tả những yếu tố bên trong nên mang tính chất thuần âm. Ta có hào dưới là dương, hào giữa là âm, hào trên là dương, tạo thành quẻ Ly (trung hư âm hỏa), biểu tượng của lửa, của tia chớp, là vẻ đẹp tự thân của đất trời trong giông bão.

(Còn tiếp kỳ sau)

L.N.C

. . . . .
Loading the player...