06-04-2021 - 15:49

NGUYỄN QUANG THIỀU: THƠ VÀ HỌA của Nhà Lý luận phê bình Hà Quảng

Nghệ thuật không chỉ làm người ta hiểu, công nhận mà cái chính, cái đặc thù là làm người ta say mê, yêu thích hay nói một cách khác tạo được những cảm xuc thẩm mỹ tích cực! Nghệ thuật Nguyễn Quang Thiều làm được điều đó với một phong cách riêng.

NGUYỄN QUANG THIỀU: THƠ VÀ HỌA

                                                                                              

1. Thơ họa thuộc hai loại hình nghệ thuật khác nhau, thơ là nghệ thuật thời gian, họa là nghệ thuật không gian, chúng có những đặc thù riêng về hình tượng cũng như ngôn ngữ thể hiện, tuy nhiên khi đều là con đẻ một tác giả có chung một thế giới quan, chung một tư tưởng triết học thì tất yếu không thể thoát khỏi những nét chung tương đồng về ý tưởng thẩm mỹ trong tác phẩm. Trường hợp thơ và họa Nguyễn Quang Thiều là một minh chứng. Trong nhiều bức tranh của Nguyễn Quang Thiều đều có những bài thơ liên đới hoặc là minh họa hoặc là khơi nguồn cảm hứng cho một suy cảm nào đấy bằng hình ảnh. Những khúc thơ hồi tưởng các tháng trong năm (hồi tưởng tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng  tư…) đã tạo tiền đề cho nhiều bức tranh; ngược lại  những bức tranh về người thổi sáo, về nhà thơ là những chân dung tự họa tâm hồn tác giả cả mặt tối lẫn sáng  được mô phỏng từ thơ và những tác phẩm Thế gian, Cây đời, Bầy chim trong nghĩa trang, Nhân chứng một cái chết…tất cả là những chân dung cuộc sống rút ra từ những ám thị thơ ca như lời thổ lộ của tác giả trên các trang facebook!  Bài viết này chúng tôi không nhằm biện minh cho những liên đới cụ thể từng tác phẩm mà muốn trừu xuất ra từ hai thể loại nghệ thuật không gian và thời gian tác giả sử dụng những nét chung về tư tưởng - thẩm mỹ để hiểu rõ thêm sự độc đáo cũng như chiều sâu các ấn phẩm của tác giả.

2. Nói đến Nguyễn Quang Thiều cả thơ cũng như họa là nói đến cái lạ, cái mới! Người ta xem thơ ông như là sự mở đầu cho một thời kỳ, người ta cũng so sánh tranh của ông với các họa sĩ đương đại thành công nhất, tất cả nhận xét đều có thể còn đôi điều bàn bạc, nhưng không thể không thấy nghệ thuật Nguyễn Quang Thiều đem đến một cảm nhận mới cho công chúng yêu nghệ thuật. Và một điều khác nhưng khá thống nhất là đều thấy thơ, họa của Nguyễn Quang Thiều có nhiều nét tương đồng về tư tưởng thẩm mỹ, nó cộng hưởng thêm những cảm xúc nghệ thuật có tính tương liên nơi người đọc thơ và xem tranh của ông.

Nét tương đồng đầu tiên, trong sự phát triển của chủ đề nhân văn, cả thơ, họa của Nguyễn Quang Thiều đều chứa đựng những thông điệp quan yếu, thân thuộc về đất nước, con người, về thiên nhiên và tạo vật mà mọi người từng gửi gắm.

Thơ Nguyễn Quang Thiều nói nhiều đến đời sống cộng đồng từ các em bé, các bà mẹ, từ chị gánh nước đêm đến người đẩy xe trong mưa gió, từ các bãi sông, con cá, chuyến đò ngang đến những cánh đồng, phiên chợ chiều, mùa cá lưới… họ sống hết mình trong cuộc sống với nhiều va đập nhưng tràn đầy nhân ái, lạc quan, kể cả trước chết chóc, mất mát “Đâu đây, không chỉ một đâu đây, mà tràn ngập bất tận/Từ bóng tối đến ánh sáng, mở ra những cánh bướm/...Chúng mang vẻ đẹp của đời sống đi khắp thế gian” (Những cánh bướm).  Cái cảm giác đó ta thấy cũng ngập tràn khi xem tranh Nguyễn Quang Thiều, trong tranh ông thường có mặt đầy đủ các nhân vật trong thế giới tự nhiên cũng như xã hội, nào cá, chim, đồ vật, từ cây sáo đến ngọn đèn, từ trang báo đến nấm mồ, từ con ngựa , bông hoa đến người thiếu phụ, từ chiếc bình gốm, cái bóng đèn, đến ông sư, con rắn…, tất cả chúng sinh, muôn loài kết hợp cùng nhau đan cài  nỗi đau lẫn niềm vui, hy vọng, tô đậm cái thông điệp sự sống muôn màu vẻ. Mười mấy khúc điệu của người thổi sáo mù là mười mấy chân dung về thế giới hữu sinh đa sắc màu, bức tranh đôi chim trên cây thập tự là sự tái sinh sự sống trên cái chêt, bầy bướm và những bông hoa là khúc hoan ca về mùa xuân và tình yêu con người, những hổn độn sinh cảnh người vật trên dưới trước sau là biến tấu của thế gian muôn màu vẻ… Tiếp cận tranh của ông với lý thuyết đa nghĩa của hình tượng ta thấy chúng gợi lên cho người xem những vấn đề từng được nêu lên trong quá khứ như sự sống và cái chết, người nghệ sĩ và cuộc đời, tình yêu thiên nhiên và tạo vật, cái thiện và cái ác, sự khốn khó của kiếp người v.v…nhưng được tác giả trình bày và lý giải cách riêng.

Xem tranh, đọc thơ Nguyễn Quang Thiều ta như vừa trải nghiệm một thế giới đa tầng đa phương bàng bạc một xúc cảm lớn về vũ trụ về nhân sinh chứa đựng nhiều phức điệu của cuộc đời và con người; thấy hiện hữu quanh ta một thế giới đa cực đan cài sự sống, cái chết, niềm vui, lẽ phải  xen lẫn những nghịch lý và phi lý. Bao trùm một cảm quan Tôn giáo lớn: Con người trước sân chầu Thượng đế, luôn hướng về Chân, Thiên, Mỹ.

Tranh: Người thổi sáo (sơn dầu trên toan của Nguyễn Quang Thiều) 

3.  Sự gần gũi giao nhau giữa thơ và tranh của ông không chỉ ở nội dung, ở mục đích các thông điệp mà còn ở con đường, ở hình thức tải chở. Cảm giác say mê, thích thú khao khát cái mới cái lạ mà hình tượng thơ cũng như sắc màu, đường nét các bức tranh tạo nên ấy mới chính là những điều cần có của nghệ thuật đích thực! Nghệ thuật không chỉ làm người ta hiểu, công nhận mà cái chính, cái đặc thù là làm người ta say mê, yêu thích hay nói một cách khác tạo được những cảm xúc thẩm mỹ tích cực! Nghệ thuật Nguyễn Quang Thiều làm được điều đó với một phong cách riêng.

Về Thơ, thật khó cho ai muốn thấy trong thơ Nguyễn Quang Thiều những ảnh hình như thật của thực tế, nó đã thoát cái vỏ bọc hạn chế của thời gian, không gian cơ học để chuyển sang cái trạng thái lượng tử tương đối. Thơ Nguyễn Quang Thiều là một thế giới chập chờn ẩn hiện, sự biến hoá của những tầng lớp sự vật luôn đổi chỗ và thay thế. Khác với lối “trực tả” trong thơ truyền thống thường bám vào một cảnh thực nào đấy rồi tức cảnh sinh tình, cái vỏ hiện thực được thể hiện khá chân thực cụ thể có lớp lang, trong thơ Nguyễn Quang Thiều, các thi liệu, thi ảnh gọi về từ khắp mọi nơi không phân biệt trên dưới xa gần kéo về quanh cái ý thơ anh định thổ lộ, cái ý thơ cũng gián cách, cũng không thật dễ thấy chỉ mơ hồ như một gợi ý, một mạch của suy cảm. Thế giới hiện hữu không chỉ được phản ánh qua cái nhìn khách quan của nhân vật quan sát mà chính tác giả hoá thân vào cái thế giới sinh cảnh đầy biến hóa để cảm thụ, suy tưởng. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều không có cái nhìn chia tách giữa chủ thể và thế giới, con người nhà thơ không đứng riêng phía ngoài mà hòa nhập bản thể vào thế giới một cách tự nhiên. Sự "nhất thể" là trạng thái thường gặp trong thơ anh, chúng được trình bày như môt trạng thái  tồn sinh cuả thế giới. Đó là một thế giới đồng đẳng, tất cả mọi sinh linh trước ánh sáng của tư duy nghệ thuật đều chung một tư cách nhân sinh: người - vật, hữu cơ - vô cơ, hữu linh - vô linh... như nhau, chung suy nghĩ, chung  cảm giác vui buồn. Để hiểu thơ Nguyễn Quang Thiều, độc giả cần một thao tác hòa đồng vào cái thế giới tạo sinh “vạn vật hữu cảm” đó. Trong thơ anh, thời gian, không gian và cả vũ trụ đều có chung cảm thức nhân sinh. Anh gọi thời gian cũng như không gian bằng tên nhân vật nhân xưng "NÀNG” là bởi cái cảm thức đó:

-  Nàng đang lướt trên mặt nước những đầm hồ, những dòng sông/ Giọng nàng vang lên đánh thức những bông hoa mùa hạ (Ban mai). Hay:                                                                  

- Nàng ra đi như ngọn xuân cuối cùng/ Khuất sau hàng cây những tổ chim đầy trứng/...bước chân nhẹ dần và nàng trở lai/ Ngày thanh xuân lần  thứ nhất của nàng (Bàn tay thời gian)

Về họa, Nguyễn Quang Thiều không vẽ theo phong cách truyền thống của thị giác trực tiếp, ông vẽ bằng “cái nhìn bên trong”, nói như Picasso “tôi vẽ theo tôi nghĩ cứ không phải như tôi thấy”. Vẽ như ông nghĩ nên có sự sắp đặt đa chiều về kết cấu và biểu tượng về họa ảnh. Tất cả sự vật hiện lên trong tranh ông như trong kính vạn hoa bằng mắt thường thấy lộn xộn, bằng trực giác thấy xa lạ, nhưng bằng cái nhìn bên trong, cái nhìn cuả sự suy cảm sẽ thấy nó trật tự, nó liên kết ý nghĩa về thông điệp mang tới. Cũng như trong thơ nhiều thi liệu đồng quê gần gũi, giản dị, trong họa các hình ảnh và đường nét, màu sắc rất mộc như các tranh dân gian vậy, chỉ có sự kết hợp sắp xếp mới lạ tạo nên tính đa nghĩa hiện đại mà sự nắm bắt ý nghĩa của từng chủ thể tiếp nhận không nhất thiết giống nhau. Sự kết hợp màu sắc, đường nét trong tranh ông tạo ấn tượng mạnh. Các chi tiết, hình ảnh  đều có tính biểu tượng, nó cụ thể quen thuộc nhưng đằng sau là những suy cảm khái quát, mang dấu ấn những tình cảm, những hiện tượng phong phú của đời sống.  Những chi tiết, những hình ảnh ngổn ngang nhưng lại tập trung  diễn tả những xúc cảm cũng như dòng suy tưởng của tác giả. Tất cả phô diễn một hiện thực bên trong, “hiện thực tâm trạng” hòa đồng tác giả và đối tượng!  

Chính cái đặc điểm hòa đồng thế giới “vạn vật hữu cảm” trong thơ và vẽ theo “suy cảm  bên trong” này khiến thơ, họa Nguyễn Quang Thiều, theo chúng tôi, rất gần với lối suy cảm nghệ thuật phương Đông, với truyền thống thẩm mỹ dân tộc. Đúng như nhận xét:“Vũ trụ là một đại hòa điệu mà đức tính là sáng tạo nghệ thuật. Nghệ sĩ phải cảm thông được với đức tính ấy, qua cảnh vật biến ảo thiên nhiên tìm vào nguồn tâm sinh linh động không có trong và ngoài, chủ quan và khách quan nữa”- HQ nhấn mạnh (Nguyễn Đăng Thục, Thiền học Việt Nam - NXB Thuận Hóa).                          

Tranh Nguyễn Quang Thiều ít nhiều có yếu tố siêu thực nên có người liên hệ với các trường phái lập thể hay siêu thực mong tiếp cận phương pháp sáng tác của ông.  Chúng đều lạ với phong cách truyền thống nhưng không chung các trường phái nói trên, Ghécnica của Picasso phân mảnh các sự vật trong không gian, Chiếc đồng hồ  trong tranh của X. Đa li (Sự dai dẳng của ký ức - The persistence of memory)  mềm oặt, nửa ngang nửa dọc biến dị trong thời gian. Bức tranh Thời gian  và vài bức tranh khác của Nguyễn Quang Thiều (Nhà thơ, Cây đời, Đồng hồ) đều có hình ảnh chiếc  đồng hồ và các vật thể khác, chúng không phân mảnh lập thể, cũng không “bị nung chảy” biến dạng siêu thực, nó chỉ xáo trộn về kết cấu thứ tự giờ giấc như 9 - 6 - 12  tạo ấn tượng vô thường của đời sống. Bởi vậy rất khó xác định phong cách hội họa Nguyễn Quang Thiều theo trường phái nào và vì ông “ngang qua cánh đồng hội họa một cách tình cờ” vẽ một cách tùy hứng, trường phái, phong cách là điều không nghĩ đến!

Chưa có triển lãm nào gần đây đông người xem như vậy và chưa có tác giả nào trong thời gian ngắn bán tranh nhanh như vậy (ngoài triễn lãm còn in thêm 1000 bản vựng tập )! Nghệ thuật “quí hồ tinh bất quí hồ đa” nhưng thực tế phát hành tranh của Nguyễn Quang Thiều cũng gợi một suy nghĩ về tầm quan trọng của thị hiếu nghệ thuật công chúng, cái điều có lúc “đứng trên” các lý thuyết và quả thật rât cần cho sự phát triển nghệ thuật ngày nay ./.

Hà Quảng

. . . . .
Loading the player...