15-06-2021 - 07:16

Một hồn thơ đa cảm và chân chất

Tạp chí Hồng Lĩnh số tháng 5/2021 trân trọng giời thiệu bài viết của nhà LLPB Hà Quảng về nhà thơ Duy Thảo: "Một hồn thơ đa cảm và chân chất"

 

một hồn thơ đa cảm và chân chất

                                                                                                   

       Dáng người gầy nhỏ, anh như lọt thỏm giữa hàng ghế, đã thế bao giờ anh cũng thích chọn hàng ghế sau, trong các cuộc họp rất khó nhận ra anh. Sự khiêm tốn thể hiện ngay ở cả cái bút danh anh chọn cho mình Duy Thảo - ngọn cỏ nhỏ. Khi đề tựa cho tập thơ 80 bài của anh, nhà văn Đỗ Chu có viết một nhận xét về Thơ đầy ẩn ý: “Cái vùng ấy mênh mang như bãi nước bí ẩn không thể giải mã, lúc rủ nhau nhào xuống thì đông mà lúc ngoi lên sao muốn vắng. Vậy mà nó cứ rủ rê con người ta mon men đến” (Duy Thảo và tôi). Dòng sông thơ rất khắc nghiệt, bao nhiêu người nhảy xuống đều chìm nghỉm họa hoằn vài người nổi lên, chúng tôi nghĩ rằng trong số ngoi lên đó có Duy Thảo! Quả vậy thời gian trôi đi, giả sử hàng chục tập thơ anh viết có chìm thì anh vẫn nổi lên trên dòng sông thơ quê hương với bài thơ “Mừng chiến thắng trời quê” bất tử ghi chiến công Hà Tĩnh những ngày đầu chống Mỹ. Bài thơ quen thuộc trong lòng nhiều thế hệ con dân Hà Tĩnh, bài thơ mà trong một lần liên hoan có Bác dự khi nghệ sĩ Xuân Năm ngâm lên đã được Bác Hồ nhắc đến hỏi thăm tác giả.

       Duy Thảo sinh năm Mậu Dần (1938), tại làng Đông Thái, xã Yên Đồng, tổng Việt Yên nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ. Học xong phổ thông Duy Thảo ra Vinh tìm kế sinh nhai. Đầu năm 1962 anh nhập ngũ vào binh chủng Phòng không, trung đoàn pháo cao xạ 280. Đấy là những năm tháng mà sau này nhớ lại anh nói, cái may mắn cho đời văn chương của anh là thời gian ở quân chủng Phòng không được chiến đấu, sinh hoạt cùng những người đồng đội làm văn chương tài hoa như Đỗ Chu, Duy Khán, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Khắc Trường, Dương Duy Ngữ…

       Bởi vậy mà “màu áo lính - màu xanh giản dị” xuất hiện rất nhiều trong thơ anh. Khi là kỷ niệm “Một thời thắm thiết màu xanh/ Cái màu áo lính trở thành nhớ thương”, khi là niềm tin “Cái màu tin để mà yêu/ Xa rồi để nhớ, gặp nhiều để mong, là nguồn an ủi “đời mà nặng gánh bão giông/ Gặp màu áo lính nghe lòng nhẹ rơi…” (Màu áo lính). Chính chất lính ấy giúp Duy Thảo bền chí, vững bước trước những thử thách cuộc đời thời hậu chiến, rồi thời đổi mới mở cửa “Bao điều bạc phếch lòng tin/ Chỉ còn quê kiểng giữ xanh lời thề” (Cõi về).

       Năm 1972, Duy Thảo rời quân ngũ chuyển về Hà Tĩnh, làm báo. Hàng tuần cứ đến chiều thứ bảy, Duy Thảo lại lên xe đạp về nhà cách xa hơn ba chục cây số. Rồi “chiều chủ nhật anh lại lóc cóc đạp xe đến cơ quan vùi đầu vào công việc, lại mì hột độn cơm, nhúm lạc rang cháy vỏ người vợ gói ghém kỹ lưỡng bằng lá giong giềng và lá chuối khô” (Đức Ban).

       Duy Thảo là nhà thơ thuộc thế hệ chống Mỹ của Hà Tĩnh - miền đất giàu truyền thống thi ca. Câu nói “thơ tức là người” vận vào Duy Thảo rất khớp. Gặp anh ở đâu đó trong một tập hợp đông người, người ta chưa dễ nhận ra anh ngay vì dáng người nhỏ gầy, nói năng nhỏ nhẹ chậm rãi, thích ngồi hàng sau…Tuy là nhà báo lâu năm, nhưng khác với những đồng nghiệp thường tải tài năng ra trên nhiều lĩnh vực truyện, kịch, phóng sự, nghị luận..., nỗi chăm chút của anh dồn hết cho Thơ. Đến với Thơ anh đi theo con đường truyền thống lấy tình làm gốc, mọi tiếp nhận về kỹ thuật thơ ca tân kỳ, hiện đại, đối với anh chỉ là nằm trên vòng quay thứ hai, thứ ba… Trong nền thơ Hà Tĩnh anh cùng thế hệ và một lối viết có thể xếp chung dòng với Xuân Hoài, Lê Duy Phương, Nho Liêm, Phan Duy Đồng…tuy vẫn có một sắc thái riêng.

       Trưởng thành từ những năm chống Mỹ nhưng thơ anh trải dài đến suốt cả thời kỳ xây dựng sau này và cũng chính thời kỳ sau này con đường Thơ của anh mới có vẻ “chuyên nghiệp” và khẳng định được mình. Âm hưởng thơ của anh bởi vậy có sự tiếp nối nhưng có những đặc điểm riêng của hai chặng đường, hai cách nhìn, hai mối cảm xúc về lịch sử, về thế sự, cũng như những vấn đề trữ tình cá nhân.

       Thơ anh giai đoạn chống Mỹ thấm đượm chất hào hùng, cái âm hưởng chung của thơ ca bấy giờ Hà Tĩnh quê ta trận đầu thắng Mỹ, Niềm tự hào nước mắt bỗng rưng rưng...Nó cộng hưởng với người đọc về tâm trạng hơn là kỹ thuật thơ. Về sau thơ anh chủ đề trải rộng nhiều chiều hướng, với chiều sâu của một vốn sống từng trải luôn có những câu thơ đằm sâu suy nghĩ. Anh nói về sự hy sinh mất mát của những bà mẹ, người chị trong chiến tranh: Ngày báo tử chị khóc không thành tiếng Rồi hóa thân làng xóm gọi bằng bà (Mưa ngâu), hay Để tâm linh thấm vào tận nỗi đau, Lời trăn trối mẹ già lúc vĩnh biệt, Nắm nhang thắp giữa chừng không cháy hết, Khúc đoạn trường lời cách biệt âm dương (Nhắn tìm đồng đội). Trước mất mát của cuộc đời, sự hy sinh của người đi trước, ta bắt gặp trong thơ của Duy Thảo một tâm trạng riêng khá nổi bật, đó là sự tự hối, thấy cái hạn hẹp, tầm thường của mình trong mối cộng cảm cùng thế sự. Một cái gì có phần ray rứt có phần hối hận, khi nhớ đến những người bạn đã đi xa, dang dở bao nhiêu ý nguyện. Cái cảm thức về sự suy tính thiệt hơn đầy toan tính cá nhân, thấy mình là người có lỗi luôn trở đi trở lại cùng tác giả. Gần hết cuộc đời nhìn lại: Ngoái lại đằng sau bao nuối tiếc/ Tự trách mình chưa làm được nhiều hơn/Qua nắng mưa qua nóng lạnh đời thường/ Vẫn chỉ thấy mình là người có lỗi/ Những toan tính của một thời nông nổi (Trước xuân này).

       Chủ đề quê hương, gia đình cũng sâu đậm trong thơ anh. Trong chiều dài cảm hứng gia tộc, gia đình, tác giả tìm được sự kết nối, sự phát triển, từ bé đến lớn, từ nhạt nhòa đến sâu đậm, từ bóng tối ra ánh sáng, từ đau khổ đến sướng vui. Tất cả hiển hiện qua sự thay đổi của làng xóm, từ cái thưở lao đao giáp hạt ngược xuôi tảo tần, đến bây giờ một vùng văn vật nên thơ nên vần và qua sự thay đổi của chính bản thân… Thơ anh tràn đầy tình nghĩa với cuộc đời, gia đình, bè bạn nhưng không chỉ có thế, với bao nhiêu năm tháng từng trải  tác giả còn ý thức được cả những va chạm, những cọ xát đằng sau bao sự việc. Những ân tình trải qua thời gian bao thử thách không phải không có nghịch lý, nhưng với những nghịch lý đó tác giả nghiệm sinh một lẽ sống, một cách xử sự nhẫn nại, yêu thương và tin tưởng. Đó là cái mạch ngầm triết lý mà người đọc nhận thức gián tiếp qua bề sâu thơ anh.

       Khi nhà thơ nhắc đến ông bà tổ tiên trong mạch cảm hứng truyền thống dân tộc: Chân hương bao lớp cắm dày/ Tổ tiên cha mẹ họ hàng nằm đây/… Cúi đầu cầu nguyện tổ tiên… hay nhớ đến song thân: Cha đi biệt xứ quê người bao năm/ Một đôi vai mẹ tảo tần/ Gánh bao cay cực âm thầm ngày đêm, ta cảm thấy đã nói hộ cho tấm lòng của mình. Trong làn hương khói nhạt nhòa, sống lại với người đọc cái tâm thức một thời trôi nổi “nửa thì gia tộc, nửa thì quê hương” (Hồ Dzếnh). Nhiều câu thơ nói về tình cảm gia đình, làng xóm thật cảm động. Đón người vợ sau tai biến trở về, chưa hoàn toàn bình phục “nhìn em lóng ngóng cầm rơi đũa/ Anh thương nước mắt bỗng trào ra”, câu thơ không có gì to tát, một chi tiết đơn giản mà thấm đẫm tình thương yêu tấm mẵn, tao khang! Và có thật gắn bó với quê làng mới thấy được đời sống bà con Đồng tiền gom nhặt dân quê/ Còn lo đóng đậu nhiều bề ăn theo! Câu thơ khiến người đọc không khỏi quặn lòng!

       Nhắc đến Duy Thảo là nhắc đến một cốt cách chân thật và một sức lao động cần cù miệt mài theo năm tháng, một tấm gương hiếu thảo, ngoài sáu mươi hàng ngày vẫn chăm sóc mẹ già tận tuỵ từ miếng cơm, chén thuốc đến mọi việc sinh hoạt bận bịu khác hết năm này sang năm khác, mưa cũng như nắng ...Tôi quen anh từ những ngày Nghệ -Tĩnh còn là một, tôi chỉ trẻ hơn anh dăm tuổi nhưng lúc ây tôi đang thời kỳ bồng bột chưa hiểu hết nét chân chất, thầm lặng của con người và Thơ anh. Sau khi tách tỉnh có dịp gặp nhau luôn, tôi mới nghiệm ra cái câu nói của người xưa quen xem dạ, lạ xem áo quần, nó thâm thúy làm sao! Ba mươi năm một giọng thơ, gần chục tập vẫn một cá tính, đó không là một sờn mòn mà là một bản lĩnh, có cái gì như những người con lưu lạc mọi miền vẫn một giọng quê nằng nặng mà nơi xứ người nghe xong đã muốn òa khóc. Trước sau nó vẫn trẻ trung vẫn mộc mạc, chân chất, vẫn đậm đà một chất “giọng trung” đậm đà xứ Nghệ trong dàn hợp xướng thi ca Hồng Lam.

       Sinh trưởng trên một vùng đất đẹp như tranh hoạ đồ, có núi giăng tiếp núi, mây trôi kín trời, vùng đất hội hè, đình đám, hết Chùa Hương, đến Chợ Củi, hết chọi trâu đến đua thuyền…. Vùng đất xinh đẹp, đầy hào khí song  cái nghèo đeo đẳng ngàn đời nay. Tập quán thẩm mỹ nơi này không ưa những hào nhoáng, những phù vân những hình thức giả tạo. Thơ Duy Thảo cốt lấy cái tình thực làm điểm tựa mà thể hiện, mà tỉ tê cùng bầu bạn. Đứa con miền quê nghèo khi nói về nơi chôn rau cắt rốn thật khiêm nhường, dung dị: ..Thương mẹ già còng lưng lo chống chọi/ Nước xiết chân lẩy bẩy chuyến đò đầy/ Thương em thơ bụng đói, mắt thơ ngây/ Chờ tấm bánh mỏi mòn chưa kịp tới (Gửi miền Trung)

       Và trong cái thời buổi còn nhiều nhố nhăng, thật giả lẫn lộn, nhiều đua đòì thái quá, người đọc tìm thấy đâu đây một hơi gió lành khoan hoà, ấm áp, một nền nếp gia phong: Câu tục ngữ ôm vào câu thành ngữ/ Đời cho ta giàu tiền gạch, ngãi vàng

       Để lúc vui con biết cười ý tứ/ Để lúc buồn con biết khóc đoan trang (Thơ cho con ngày đi lấy chồng)

       Duy Thảo thử thách trên nhiều lối thơ: năm chữ, thơ tự do, thơ  tám chữ, thơ lục bát, tứ tuyệt… đâu cũng gặp một cách nói ấy, chân thật, giản dị, không khoa trương, màu mè, không hô to, gọi giật ngay cả khi viết về chiến công, viết về Đảng về lãnh tụ: Gửi trọn niềm tin, Trước ảnh Bác. Đặc biệt các bài thơ về hoa lá cây cảnh. Thiên nhiên vốn trong sạch và vô tư. Người xưa khi tránh cái đời “đục” hay tìm về với thiên nhiên. Duy Thảo khi mệt mỏi cũng tìm về thiên nhiên để nghỉ ngơi Chân mỏi gót trần lên thiền viện. Bỗng nhẹ thênh lòng một tiếng chim (Tiếng chim). Đời không bình yên, nhà thơ tìm về với hoa lá mong nhận được một sự thủy chung chân thật. Đến cái tuổi cổ lai hy, ngẫm nghĩ sự đời câu thơ anh thốt lên đầy vẻ nghiệm sinh xoáy vào tâm tư người đọc: Thuỷ chung còn lại nhành hoa bưởi/ Thơm ngát góc vườn giữ tuổi xuân (Hoa bưởi)

       Bao năm trăn trở lưu lạc với đời, về vườn xưa nhà thơ thấy mình trẻ lại bởi cành bưởi thơm ngát giữ tuổi xuân cho mình! Thời nào cái tình ngươi vẫn quý nhất, và quý nhất trong cái bể tình đó là sự thuỷ chung. Và chính sự thuỷ chung nó làm cho tình người chiến thắng thời gian! Là nhà báo giúp anh đi và biết nhiều nơi nhiều vùng, nhiều cảnh đời, với tâm hồn thơ Duy Thảo gửi gắm vào đấy nhiều rung cảm. Nào Tam Soa, Cầu Ngúc, Suối Tiên, rồi Xóm Mồ Côi, Núi Thiên Tượng, Ngã ba Đồng Lộc… tất cả đều được gửi gắm trong những câu thơ đằm thắm, chân tình. Theo con đường đi của các gia đình Việt Nam từ làng quê ra phố phường, trong cuộc di chuyển mưu sinh nặng nhọc này cái được, cái mất thật khó lường. Duy Thảo thổ lộ theo cách của mình: Từ ngày ra bám phố, kẻ lạ rồi khách quen, đêm ắng im cánh cửa, ngày nhao nhác đồng tiền. Từ ngày ra phố lạ, chen đi với dòng đời, chút gia tài góp nhặt, biết mình đang đánh rơi (Tìm về). Ai đã qua rồi những thăng trầm, lên xuống, những được thua, vấp ngã hẵn không thờ ơ lật qua những dòng thơ: …Rồi tất cả tan chìm cơn dĩ vãng/ Những dại khờ, những lọc lõi phù du/…Xin lượm chút sợi vàng vương trên gối/ Khóe mắt nhìn âu yếm những thương yêu (Lối rẽ)

       Thơ Duy Thảo thời kỳ sau nghệ thuật cũng chín hơn. Câu thơ anh giai đoạn này ngôn ngữ “đời” hơn, tươi mát hơn:…Phù sa ngọt xớt búp non tơ/ Sau làn mưa rắc lây phây hạt (Bến quê). Nhịp điệu phóng khoáng, cấu tứ đa dạng: Ngày ấy, em đi theo giận dỗi/ Heo may tráng lạnh lá dong riềng/ Hạt đổ nép vào khe đất hở/ Ơ hờ nằm đợi tiết ra giêng (Góc chiều). Câu thơ viết 1997, tuổi ngoài sáu mươi mà hóm hỉnh tuổi đôi mươi!

*

       Hơn năm mươi năm cầm bút, trải nghiệm bao nhiêu thăng trầm của đời sống, nói như Vônte “có bao nhiêu là ký ức, cuộc sống tưởng đã nghìn năm”, tác giả chiêm nghiệm thổ lộ ra trên những dòng thơ chân chất đằm sâu tâm sự.

       Trăm năm mỗi cuộc đời như là bốn mùa thì cái tuổi “cổ lai hi” của tác giả đã là cuối thu sang đông; những cơn mưa giao mùa này không còn cái mát mẻ hay nồng ấm của thì xuân, không hào nhoáng cháy bỏng cái sự lạ mùa hạ  hay trong trẻo hương đưa của mùa thu mà giao hòa giữa trầm lắng pha chút u hoài của cái gì đã qua và sắp tới ở mùa đông.

       “Khép lại tập sách, những lo lắng, thấp thỏm ban đầu mờ dần, đọng lại là nỗi bâng khuâng vướng vít, vừa lạ, vừa quen trước một hồn thơ đa cảm và chân chất. Chính điều này đã cứu anh và giữ lại cho chúng ta cái khôi nguyên của khá nhiều rung động thơ sau bao nhiêu trải nghiệm vui buồn. Ở đây sự thông minh phải lùi bước cho sự chân thành. Chân thành và gan ruột. Thơ Duy Thảo là như thế. Những ấn tượng về một tấm lòng nhân hậu, chân thành, một ý thức thường trực trước đời sống tạo nên cảm tình của người đọc khi khép lại tập thơ này.” (Hữu Thỉnh, Hồn thơ Duy Thảo). Xin mượn câu nhận xét của nhà thơ Hữu Thỉnh để gói lại bài viết này./.

Hà Quảng

. . . . .
Loading the player...