22-07-2020 - 06:14

HÌNH TƯỢNG ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU QUA NGÔN NGỮ TIỂU THUYẾT

Năm 2015, chẵn 250 năm sinh Nguyễn Du (1765-1820), UNESCO đã tôn vinh Đại thi hào DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI. Năm 2020, Việt Nam tổ chức kỷ niệm 200 năm năm mất của Đại thi hào dân tộc. Có nhiều cách thức tưởng nhớ và ghi công người con đã làm rạng danh đất nước mình. Dùng hình thức tiểu thuyết, nhà văn Nguyễn Thế Quang đã dựng nên một tượng đài bằng ngôn từ nghệ thuật khắc chạm hình tượng Đại thi hào Nguyễn Du, trước hết là một nghệ sỹ vĩ đại, một nhà nhân đạo lớn, và sau hết là một nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam. Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Du được Nhà xuất bản Hội Nhà văn và công ty Sách Phương Nam xuất bản năm 2010 (tái bản 2012); tiếp theo được Nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2015.

HÌNH TƯỢNG ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU

QUA NGÔN NGỮ TIỂU THUYẾT

(Đọc Nguyễn Du, tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Thế Quang, Nxb Hội Nhà văn, 2012)

 

 Đại thi hào Nguyễn Du trở thành nhân vật văn học  

Trên Tạp chí Hồn Việt (số 75, tháng 11-2013), Nguyễn Thế Quang đã viết bài Tôi đi tìm Nguyễn Du, ông đã chia sẻ với độc giả quá trình “đi tìm” Đại thi hào dân tộc bằng hình thức văn chương/ tiểu thuyết. Nhà văn đã dồn công sức, thời gian và cả tài chính khiêm tốn của một giáo chức về hưu đi vào Hà Tĩnh, Quảng Bình, Huế; rồi ngược ra Thăng Long, Bắc Ninh, Thái Bình,... Nghĩa là tìm về cội nguồn những vùng đất mà Nguyễn Du đã từng sống (thậm chí mới in đó đây dấu chân thi nhân). Cuộc đi tìm này bắt đầu từ năm 2003, khi tác giả nghỉ hưu. Quả công phu không phụ lòng người. Bảy năm trời ấp ủ, thai nghén, suy ngẫm, thể nghiệm viết, sửa chữa, bổ sung, nâng cao, hoàn thiện để cuối cùng đứa con tinh thần của mình - tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Du - trình làng văn, năm 2010. Không chỉ có tác giả vui mừng vì tác phẩm nghệ thuật ra đời hoàn chỉnh. Độc giả cũng đồng thời được gây men niềm hứng thú khi “diện kiến” một hình tượng văn học tròn đầy, sâu sắc, giàu liên tưởng. Tôi có cái may mắn được tác giả tặng một “collection” tiểu thuyết lịch sử  do ông mài giũa ngòi bút viết nên trong vòng một thập niên qua: Từ Nguyễn Du (2010) đến Khúc hát những dòng sông (2012), Thông reo Ngàn Hống (2015) và gần nhất là Đường về Thăng Long (2019). Trong bốn nhân vật lịch sử do nhà văn tạo dựng nên bằng ngôn từ nghệ thuật: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Bà Hoàng Thị Loan (Thân mẫu của Bác Hồ) và Võ Nguyên Giáp, thì mỗi nhân vật một vẻ, đúng là mười phân vẹn mười. Còn độc giả thì  nhân tâm tùy thích. Tôi thuộc số độc giả riêng yêu thích nhân vật Nguyễn Du. Lý do cũng hết sức đơn giản. Vì thi nhân là tác giả của kiệt tác Truyện Kiều (như là “Thánh Kinh của người Việt” - Trần Nhuận Minh). Vì thi nhân là một tấm lòng bao la nhân ái trong thiên hạ. Vì thi nhân là biểu tượng của đức độ và tiết tháo của kẻ sỹ xưa, nay thì đốt đuốc mới tìm được (!?). Vì thi nhân là nhà tiên tri thấy được cuộc bể dâu muôn đời mà chúng sinh phải ngụp lặn, ngoi lên sống. Vì thi nhân là bậc thầy ngôn từ văn chương đã nhiều công lao nâng tiếng Việt lên tầm cao mới. Tôi, một độc giả đã cảm nhận về Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Còn tác giả tiểu thuyết Nguyễn Du đi tìm điều gì? Tôi đặc biệt chú ý câu thơ “Mai cốt cách tuyết tinh thần” của Nguyễn Du được tác giả dùng làm Đề từ cho tác phẩm đầu tay và thành công đầu tiên trên con đường thiên lý văn chương của mình. Tôi hiểu, tác giả muốn, bằng hình tượng văn học, xây dựng/tái hiện một NHÂN CÁCH, không ham hố “lập công” với triều đại mới mà chỉ đau đáu “lập thư” cho đời và hậu thế (cần chú ý tình tiết thi nhân nghĩ về người mẹ đã khuất “Còn con của mẹ - đứa con mẹ chiều chuộng nhất tóc đã bạc trắng, khoác trên mình chiếc áo quan triều, sức còn khỏe, lưng còn thẳng mà lắm lúc phải đi còng mẹ ạ”, “Bao năm qua, bao đau đớn, bao lựa chọn, con muốn lập thư, con muốn viết được những trang sách hay cho con người sống nhân từ hơn, yêu thương hơn. Con sẽ từ quan để về với non Hồng, về với những trang sách, về với chính con....Có thể con sẽ thất bại nhưng trước hết được làm Người”; Nguyễn Du, trang 40-42). Một NHÂN CÁCH như Nguyễn Du tất yếu sẽ tìm được TỰ DO bên trong, từ chính mình. Đó không chỉ là phẩm cách của một con người chân chính (viết Hoa) mà là của một nghệ sỹ đích thực (có khả năng sáng tạo những “ tác phẩm làm thành người” - chữ dùng của văn hào Pháp R. Rô-lăng). Nhưng rốt cục, Nguyễn Du cũng không thể vượt qua được thời đại mình sống. Đã nhủ lòng từ chối làm quan cho triều đại Tây Sơn, nhưng vẫn quay ra làm quan cho triều Nguyễn. Suy cho cùng, Nguyễn Du, cũng như những nghệ sỹ lớn mọi thời đại, đều mang trong mình một khối mâu thuẫn lớn tựa Thái Sơn (!?). Theo tôi, có vẻ như Nguyễn Thế Quang đã vận dụng phép/ phương pháp “lập thể”  để “vẽ” nhân vật Nguyễn Du sống cách chúng ta hơn 200 năm.

Nhưng sẽ là thiếu hụt với độc giả khi tiếp cận nhân vật văn học Nguyễn  Du, nếu tác giả chỉ bó hẹp nó trong các tương quan của trường chính trị. Nhân vật Nguyễn Du được “vẽ” trong một không gian - thời gian mở, gồm tổng hòa các quan hệ xã hội - tự nhiên - gia đình - văn chương (lúc này không phải là một nghề, mà là nghiệp). Và quan trọng hơn cả là đặt/ miêu tả nó trong cuộc đấu tranh nội tâm, tự nhận thức, theo tinh thần “phản tư”, “sám hối”. Tác  giả đã tránh được những “cạm bẫy ngọt ngào” vốn hay giăng mắc sẵn với những cây bút non tay khi tái hiện lịch sử (ví dụ quan hệ của Nguyễn Du với phụ nữ nói chung, với Hồ Xuân Hương nói riêng).

Cuối cùng “Tôi đi tìm Nguyễn Du” là khi tác giả khi hiện thực hóa trong tác phẩm và kỳ vọng đưa/ đẩy hình tượng lên tầm đối thoại văn hóa - chính trị - xã hội - thẩm mỹ - thế sự: về bản chất của tự do, về nhân cách người nghệ sỹ, về quan hệ giữa trí thức và quyền lực, về trách nhiệm của người nghệ sỹ  trước thời cuộc, về các giá trị văn hóa được sáng tạo nên bởi những vĩ nhân (danh nhân). Trong bốn cuốn tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Thế Quang đã xuất bản thì Nguyễn Du, Thông reo Ngàn Hống và Đường về Thăng Long đượm đà chất/ tính/ tinh thần đối thoại theo nguyên tắc chân - thiện  - mỹ.  Giải thưởng Văn học ASEAN 2019 dành cho Nguyễn Thế Quang, tôi nghĩ, Ban Giám khảo đã hết sức quan tâm tới phẩm chất “đối thoại thời đại” của sáng tác văn chương. Bởi vì thời đại ngày nay đối thoại thay cho đối đầu, đối thoại thay cho độc thoại trong một thế giới phẳng và mở.

Lịch sử và hư cấu

Có thể nói, trong số bốn tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Thế Quang thì riêng với Nguyễn Du, tác giả đã tập trung giải quyết thành công một nhiệm vụ nghệ thuật khó khăn nhất khi chạm bút vào quá khứ, vào các nhân vật của dĩ vãng được xác định qua sử liệu lưu trữ - mối tương quan giữa sự thật lịch sử và quyền hư cấu của nhà văn. Thông thường “tiểu thuyết” là hư cấu (tiểu thuyết là một câu chuyện bịa y như thật). Nhưng “tiểu thuyết lịch sử” lại đòi hỏi nhà văn phải trung thành tuyệt đối với các biến cố, sự kiện, con người đến từng chi tiết. Bề ngoài tưởng như mâu thuẫn. Nhưng văn chương có cách thức hóa giải mâu  thuẫn này bằng con dường riêng. Trong Hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức (tháng 2-2018), Nguyễn Thế Quang có tham luận Đề tài lịch sử và những vấn đề đặt ra về đổi mới tư duy tiểu thuyết, đã nhấn mạnh: “ Viết tiểu thuyết lịch sử là khám phá về một thời đã qua, đã xa. Lịch sử chỉ có một, nhưng mỗi thời, mỗi người có một lượng thông tin khác nhau, có khi trái ngược nhau (…). Viết tiểu thuyết lịch sử, không chỉ quay lại tìm vẻ đẹp của người xưa mà  chính là để đối thoại với hiện tại, chia sẻ cùng bạn đọc, hướng tới cái tiến bộ”. Về quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu trong sự viết, ông xác quyết: “Từ mục đích tác phẩm, chúng tôi chọn sự thật nhiều hay ít. Viết để giải trí, để giễu nhại thì hư cấu, phóng đại phải nhiều hơn. Viết để người đọc tin thì yếu tố thực phải nhiều hơn. Chúng tôi không tính tỷ lệ, chỉ biết lựa chọn viết cái gì để đạt được ý tưởng của mình”.

Ở tiểu thuyết lịch sử đầu tay Nguyễn Du, có thể nói, tác giả đã khá mạnh tay khi giải quyết vấn đề tương quan giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Những sự kiện liên quan đến mối quan hệ tình cảm giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, cuộc đối thoại giữa vua Gia Long và Nguyễn Du, kể cả chuyện Nguyễn Du chủ động phá “long mạch” để sau này trong dòng họ không có ai ra làm quan (vì phải “bó thân vào với triều đình”, như tiêu đề phần thứ hai tiểu thuyết), là những ‘chuyện bịa như thật”, hay “thật như bịa”, đôi khi khó phân biệt rạch ròi.

Nếu coi hiện thực được phản ánh không đơn thuần là hiện thực - sự kiện, vốn có mà quan trọng hơn là hiện thực trong tính “khả nhiên” (có thể có) của nó thì Nguyễn Du là một bước vừa thăm dò, vừa đột phá trong cách viết của Nguyễn Thế Quang khi chăm chút lịch sử. Đến Đường về Thăng Long thì “cái khả nhiên” đã như là sự dẫn dắt lối viết của tác giả khi “chạm” đến những nhân vật lịch sử phức tạp như Trần Trọng Kim, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Vũ Hồng Khanh,...

VĂN PHONG TIỂU THUYẾT

Nếu nói văn chương là nghệ thuật ngôn từ thì khi đọc bốn cuốn tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Thế Quang, riêng tôi, rất quan tâm đến “chất văn” của tác phẩm. Tác giả vốn là giáo viên dạy môn văn ở trường PTTH Huỳnh Thúc Kháng tiếng tăm ở xứ Nghệ. Nhưng dạy văn mà yêu văn, đam mê sáng tác như Nguyễn Thế Quang, không nhiều. Đọc Nguyễn Thế Quang, thấy rõ ý thức của người cầm bút mình viết cho người Việt Nam đọc. Văn Nguyễn Thế Quang nhiều cảm xúc, mạnh về trực giác nhưng không hao khuyết trí tuệ. Nói tiểu thuyết đầu tay Nguyễn Du của Nguyễn Thế Quang có hấp lực với độc giả (bằng chứng đã in đến lần thứ ba ở hai nhà xuất bản, sách bán hết), không chỉ là những “chuyện” hay về Nguyễn Du và thời đại thi nhân sống, không chỉ là những nỗi niềm éo le, đôi khi cắc cớ trong sâu thẳm tâm hồn một con người đa đoan, đa sự, đa tình như ta thấy. Hấp lực còn bởi tư tưởng, sự kiện, hành động, tâm lý, trạng huống nhân tình thế thái,...được chắp cánh bằng một thứ ngôn từ - tiếng Việt - chuẩn, trong sáng, tinh gọn, biểu cảm (ví dụ mở đầu chương 8: Năm 1813, Nguyễn Du trở lại Thăng Long sau chín năm biền biệt, trước cuộc hành trình đi Sứ sang Trung Hoa, đọc thấy ngoại cảm và  nội thương quấn quyện). 

Bùi Việt Thắng

 

. . . . .
Loading the player...